Tình hình kinh tế xã hội Xuân Minh
Sơ bộ tình hình kinh tế - xã hội xã Xuân Minh qua các giai đoạn
Tháng 7-1954, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu bước sang thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.
Tháng 9 1954, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã kịp thời ra Nghị quyết để chỉ rõ nhiệm vụ chung của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại hiệp định đình chiến để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc1.
Tinh thần Nghị quyết đó của Đảng đã nhanh chóng được quán triệt sâu sắc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tại Xuân Minh, trong khung cảnh tưng bừng, phấn khởi của những ngày vừa hoà bình lập lại, cán bộ, đảng viên, dân quân tự vệ và nhân dân vẫn đề cao cảnh giác để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xuyên tạc và phá hoại của địch. Mặc dù nhiều nơi ở miền núi, thành thị, nông thôn và các vùng công giáo, bọn thổ phỉ, gián điệp, phản động tay sai cho đế quốc Mỹ ra sức quấy rối và phá hoại nền an ninh chính trị của ta, nhưng ở Xuân Minh, không một kẻ gian nào có thể lọt vào được. Lúc này, công tác trị an được chú ý rất nghiêm ngặt. Lực lượng công an và dân quân địa phương được củng cố, tăng cường và ngày đêm tuần tra, cảnh giác để nhân dân yên tâm lao động, sản xuất. Những biểu hiện của tư tưởng hoà bình, nghỉ ngơi và lơ là mất cảnh giác của một số cán bộ và quần chúng đã được uốn nắn kịp thời. Qua việc học tập và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng mà cơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể của quần chúng được tăng cường, củng cố vững mạnh hơn.
Nghe theo lời gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch, mọi tầng lớp nhân dân Xuân Minh đã đoàn kết một lòng cùng với nhân dân cả tỉnh bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế (1954-1957) với một tinh thần hăng hái, quyết tâm rất cao.
Ngay từ cuối tháng 7-1954 trở đi, nhân dân ở đây đã tập trung lực lượng lao động vào việc sản xuất vụ mùa cho kịp thời vụ, đồng thời tranh thủ san lấp hào luỹ và phát quang các hàng rào kiên cố ở xung quanh làng để việc đi lại, sản xuất được dễ dàng và tiện lợi hơn. Thế là các làng kháng chiến đã trở thành các làng sản xuất và xây dựng.
Thời gian này, nắng hạn kéo dài. Việc tạo ra nguồn nước để cấy hết diện tích là một việc cần kíp ở địa phương. Một phong trào thuỷ lợi được phát động nhanh chóng và sôi nổi ở tất cả các làng. Quần chúng nhân dân đã hăng hái tham gia vào việc đắp đập sông Cầu Chày và đào giếng, khơi mương, đắp bờ giữ nước ở khắp các xứ đồng. Các tổ đổi công của các làng đã phát huy vai trò tích cực của mình trong việc lấy nước chống hạn này. Nhờ vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, tất cả mọi diện tích đất canh tác ở đây đều đã được cấy kịp thời vụ.
Bên cạnh việc ra sức khôi phục và phát triển sản xuất ở địa phương, nhân dân Xuân Minh còn tích cực đóng góp sức người, sức của vào các phong trào chung của tỉnh. Nhiều người đã hăng hái tự nguyện đi thanh niên xung phong, đi công nhân cầu đường, hoặc công nhân các công trường, nhà máy để làm nhiệm vụ khôi phục kinh tế và kiến thiết xây dựng. Đặc biệt, hàng trăm nhân công của Xuân Minh được huy động liên tiếp lên công trường sửa chữa đập Bái Thượng, đập Bàn Thạch, cống Phong Lạc và hệ thống nông giang sông Chu đã tích cực lao động ngày đêm để góp phần đưa nước về đồng ruộng ở các vùng trong tỉnh (12-1954).
Cuối năm 1954, một trận lụt lớn làm vỡ đê sông Chu đã gây rất nhiều thiệt hại và tình trạng đói kém đối với nhiều địa phương trong, ngoài huyện Thọ Xuân. Riêng vùng Xuân Minh còn bị ảnh hưởng trực tiếp của nạn lụt sông Cầu Chày, cho nên lúa và hoa màu cũng bị trôi, hỏng hết. Trước tình hình khó khăn nghiêm trọng này, nhân dân Xuân Minh lại phát huy tinh thần đoàn kết và tương thân, tương ái để giúp đỡ lẫn nhau vượt qua nạn đói. Đảng và chính quyền địa phương còn tìm ra nhiều biện pháp tích cực để nhanh chóng ổn định tình hình đời sống nhân dân. Một phong trào trồng các loại cây lương thực, hoa màu và rau quả ngắn ngày đã được phát động sâu rộng ở tất cả các làng. Nhờ đó mà tình trạng khó khăn, đói kém đã bị đẩy lùi.
Đầu năm 1955, giữa lúc phong trào quần chúng đang trên đà khí thế và vừa thu được một số thành tích bước đầu thì ở Xuân Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc cải cách ruộng đất lại được tiến hành tiếp tục một cách khẩn trương để hoàn thành triệt để nhiệm vụ phản phong một nhiệm vụ chiến lược cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ. Đến cuối năm 1955, cuộc cải cách ruộng đất ở Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu được những kết quả rất to lớn: Toàn bộ giai cấp địa chủ bóc lột ở tất cả các làng đã bị đánh đổ, quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất hoàn toàn xoá bỏ. Hơn 500 mẫu ruộng đất và hơn 100 gian nhà ngói cùng mấy chục trâu, bò và nhiều tài sản khác của giai cấp địa chủ đã bị tịch thu để chia cho hàng mấy trăm hộ nông dân. Riêng về ruộng đất thì đối với những người không có và thiếu ruộng đều được chia để đảm bảo mức bình quân hơn 3 sào/ một nhân khẩu.
Thế là, đến đây, sau 25 năm đi theo Đảng làm cách mạng (1930-1955), giai cấp nông dân Xuân Minh đã được thực hiện triệt để khẩu hiệu người cày có ruộng một khẩu hiệu chiến lược được đề ra từ ngày Đảng ra đời. Với cải cách ruộng đất, giai cấp nông dân Xuân Minh hoàn toàn thoát khỏi ách bóc lột phong kiến có từ ngàn đời để thực sự bước sang địa vị làm chủ về chính trị, kinh tế tại địa phương.
Qua cải cách ruộng đất, nhận thức, quan điểm, lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng cao, làm cho tình cảm công nông liên minh và khối đoàn kết nông thôn được củng cố, tăng cường vững chắc hơn bao giờ hết. Tuy vậy, quá trình cải cách ruộng đất cũng có phạm những sai lầm phổ biến và nghiêm trọng (đặc biệt là việc chỉ đạo thực hiện). Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch đã kịp thời phát hiện và chỉ đạo việc sửa sai từ cuối năm 1956 đến giữa năm 1957. Nhờ đó mà những thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất mới phát huy được ý nghĩa tích cực một cách trọn vẹn. Qua sửa sai, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân càng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng. Rồi tiếp sau đó, sơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể lại được củng cố, kiện toàn một cách vững chắc hơn. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng ở đây mới được phát huy và đáp ứng kịp thời với sự đòi hỏi ngày càng cao của việc tổ chức, chỉ đạo các phong trào quần chúng.
Song song với cải cách ruộng đất, việc ra sức phát triển sản xuất để phục hồi kinh tế tại Xuân Minh cũng được đẩy mạnh toàn diện. Các tổ đổi công ở các làng lúc này đã thu hút được 100% số hộ nông dân tham gia đã hoạt động ngày, đêm rất tích cực và có hiệu quả trong các phong trào làm thuỷ lợi, làm phân bón và khai hoang vỡ hoá để tăng diện tích gieo trồng, v.v...
Sau ba năm khôi phục kinh tế (1954-1957), đời sống của nhân dân Xuân Minh đã đi dần vào thế ổn định. Đặc biệt về mặt sản xuất lương thực một khâu cơ bản trong đời sống đã giành được thắng lợi liên tiếp trong mấy vụ đầu. Trong 3 năm, diện tích canh tác nông nghiệp của toàn xã đã tăng hơn so với 1954 là 25 mẫu. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những bước phát triển mới và hoạt động rất tích cực. Đường làng, ngõ xóm cũng được mở rộng và ngày càng phong quang, sạch sẽ hơn. Nhờ đó mà bộ mặt đời sống, xã hội của Xuân Minh đã tiến bộ so với thời kỳ trước hoà bình lập lại.
Mặc dù công cuộc khôi phục kinh tế của Xuân Minh có những biến chuyển đáng kể, nhưng nhìn chung thì nền kinh tế ở đây vẫn là nền kinh tế nông nghiệp cá thể, phân tán, nhỏ bé và nghèo nàn, lạc hậu. Giai cấp nông dân tuy đã thoát khỏi quan hệ sản xuất phong kiến nhưng vẫn phát triển một cách tự do, rời rạc và chưa đi vào một quĩ đạo thống nhất, cho nên nếu cứ để tiếp tục kéo dài thì nhất định sẽ nảy sinh xu hướng phát triển tư bản một nguyên nhân cơ bản của tình trạng người bóc lột người ở nông thôn. Đến lúc này, không phải riêng ở Xuân Minh mà là toàn bộ các vùng nông thôn trên miền Bắc, cuộc đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã được đặt ra một cách cấp bách. Giữa lúc đó, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tất cả mọi thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh để đưa miền Bắc tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Cuối năm 1958, quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết của hội nghị lần thứ XIV của Trung ương Đảng (11-1958), Đảng bộ Thanh Hoá đã phát động một phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa (mà trọng tâm là cải tạo và phát triển nông nghiệp) một cách mạnh mẽ và sâu rộng. Lúc này, đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công lên hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp rồi tiến lên hợp tác xã bậc cao.
Ở Xuân Minh, từ tháng 12-1958 và cả năm 1959, cuộc vận động hợp tác hoá diễn ra một cách nhanh chóng, rộng khắp và thực sự đã trở thành một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi và mạnh mẽ
Đến cuối năm 1959, hơn 70% số hộ nông dân Xuân Minh từ tổ đổi công đã tự nguyện tham gia hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp để quản lý 67,68% diện tích ruộng đất trong toàn xã. Lúc đầu qui mô của hợp tác xã còn nhỏ bé với vài ba chục hộ. Bình quân mỗi một làng thành lập được hai hợp tác xã nông nghiệp, hoa lợi ruộng đất mà xã viên được hưởng là 25%.
Do bước đầu đã phát huy được tác dụng của con đường làm ăn tập thể trong việc tập trung sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng cường phân bón, khắc phục tưới, tiêu, v.v... đã dẫn đến việc tăng năng suất liên tiếp trong một, hai vụ liền, cho nên đến năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp trong toàn xã Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu hút được gần 100% số hộ nông dân tham gia.
Song song với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp thì việc tổ chức các hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán cũng thu được kết quả rất đáng mừng. Tuyệt đại bộ phận nông dân Xuân Minh đã hăng hái tham gia và đóng góp nhiều cổ phần để đầu tư vốn cho các tổ chức hợp tác đó hoạt động và phát huy tác dụng . Trong thực tế, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán đã thực sự trở thành ba ngọn cờ hồng phục vụ đắc lực cho việc phát triển sản xuất và nhu cầu đời sống của nhân dân ở trong xã.
Sự thắng lợi của phong trào hợp tác hoá đã dẫn đến sự thắng lợi của việc thực hiện các chỉ tiêu sản xuất, kinh tế và văn hoá xã hội. ở Xuân Minh, từ năm 1958 đến 1960, do quan hệ sản xuất mới được xác lập, và lực lượng lao động bước đầu được bố trí hợp lý cho nên về sản xuất nông nghiệp rất được đẩy mạnh. Đặc biệt, về công tác thuỷ lợi và cải tiến kỹ thuật là những mặt có nhiều tiến bộ rõ nhất. Năng suất thu hoạch về lúa, bông, khoai, lạc và những hoa màu khác cũng tăng lên trông thấy so với thời kỳ còn làm ăn cá thể. Riêng về lúa, mỗi sào thu hoạch so với trước đã tăng được từ 15-20kg. Chính những chuyển biến cụ thể đó đã có tác dụng củng cố lòng tin cho quần chúng nông dân về ý nghĩa tích cực của con đường làm ăn tập thể. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng phát triển đồng bộ và kịp thời cùng với quá trình cải tạo và phát triển kinh tế đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của địa phương ngày càng thêm đổi mới. Lúc này, công tác giáo dục phổ thông và bổ túc văn hoá được chú trọng đặc biệt cho nên đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Như vậy, sau ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập ở Xuân Minh. Đó là một thắng lợi cơ bản có tính chất quyết định đối với việc xoá bỏ và chấm dứt tình trạng người bóc lột người ở địa phương. Từ một nền kinh tế tiểu nông, cá thể, lạc hậu và nhỏ bé, Xuân Minh đã xây dựng được một nền kinh tế tập thể thuần nhất xã hội chủ nghĩa rất ưu việt. Và chính nền kinh tế đó là động lực cơ bản tạo ra sự chuyển biến cách mạng sâu sắc và toàn diện ở đây. Qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, mọi tư tưởng tiêu cực như cá nhân, tư lợi, bảo thủ, lạc hậu, phân tán, tự phát, v.v... dần dần bị đẩy lùi. Giai cấp nông dân bước đầu đi vào con đường làm ăn tập thể đã tỏ rõ khả năng, sức mạnh trong việc phát triển sản xuất và khắc phục những hậu quả thiên tai cho nên rất vững tin đi theo Đảng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng qua đợt này, cán bộ, đảng viên được nâng cao hơn về lập trường của giai cấp vô sản. Nhiều đồng chí đã tỏ ra gương mẫu, tích cực trong việc liên hệ với quần chúng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời cương quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực cản trở phong trào. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ địa phương được củng cố và tăng cường vững chắc thêm một bước để đủ sức đáp ứng với những đòi hỏi ngày một cao của công tác tổ chức, lãnh đạo phong trào cơ sở trong giai đoạn mới.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã họp để vạch ra đường lối chung của cách mạng miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và thông qua phương hướng, chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Phát huy thành tích của 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã vững bước tiến sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần rất quyết tâm và hăng hái. Tại đây, ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá được tiến hành đồng thời đã diễn ra rất sinh động.
Dưới ánh sáng của các nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960) và của đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (2-1961), cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã được nhận thức đầy đủ và sâu sắc về đường lối, nhiệm vụ cách mạng của thời kỳ mới để rồi từ đó thấy rõ được trách nhiệm của mình sẽ làm gì để thiết thực đóng góp cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà.
Tại Xuân Minh, một phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa được dấy lên sôi nổi và đều khắp ở tất cả các làng. Nội dung và mục đích của phong trào đều nhằm đưa nền kinh tế của Xuân Minh tiến lên với tốc độc mới, nhanh chóng và toàn diện hơn. Phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại phong một điển hình tiên tiến trong ngành nông nghiệp toàn quốc lúc đó được phát động đã có tác dụng cổ vũ, khích lệ tinh thần quần chúng rất cao.
Đến cuối năm 1961, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh đã đạt được thắng lợi rất cơ bản. Tất cả các hợp tác xã bậc thấp với qui mô vài chục hộ đã được tháp lại để chuyển lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao với qui mô toàn thôn từ gần 100 hộ trở lên. Đó là một thuận lợi rất lớn để Xuân Minh bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Lúc này, toàn xã có 6 hợp tác xã (mỗi làng là một hợp tác xã) là: Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Xá Lê, Quang Hoa1 và Thiên Lộc.
Quán triệt nghị quyết Tăng cường cơ sở Đảng ở nông thôn để củng cố hợp tác xã và đẩy mạnh sản xuất toàn diện của Hội nghị Ban chấp hành tỉnh đảng bộ, tháng 11 năm 1961 Đảng bộ cơ sở Xuân Minh được thành lập, đã chú trọng rất đúng mức đến việc kiện toàn lại sự lãnh đạo của cấp uỷ và Chi bộ Đảng về mọi mặt để đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng có trách nhiệm sâu sát đối với các phong trào của quần chúng. Lúc này, việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện được xác định là nhiệm vụ trọng tâm số một. Bên cạnh việc ra sức phát triển cây lương thực thì việc phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi cũng được chú trọng.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật từ năm 1962 trở đi cũng được tiến hành thường xuyên.
Trong thời gian này, ở tất cả các hợp tác xã của Xuân Minh đều đã thực hiện xong nhiệm vụ công hữu tư liệu sản xuất và việc phân phối ăn chia theo công điểm, cho nên đã có tác dụng kích thích rất cao đối với người lao động.
Nói chung, trong giai đoạn bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), do quán triệt đúng đắn tinh thần nghị quyết của Đảng và biết vận dụng các nhiệm vụ chính trị cụ thể vào hoàn cảnh địa phương một cách thích hợp, cho nên cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Đặc biệt về mặt thuỷ lợi là mặt nổi bật nhất ở đây. Có thể nói đây là khâu cơ bản số một đối với việc phát triển nông nghiệp. Là một nơi luôn luôn bị thiên tai đe doạ và đồng ruộng thường ở trong tình trạng chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã úng, cho nên, việc canh tác nông nghiệp của Xuân Minh gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đồng ruộng ở đây không được ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống nông giang sông Chu. Mặc dù là vùng có sông Cầu Chày đi qua, nhưng để khai thác được nguồn nước cho nông nghiệp cũng không phải là chuyện dễ dàng. Trước đây, việc sản xuất, canh tác gần như lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, cho nên năng suất mùa màng thường hay bấp bênh và không ổn định. Vấn đề thâm canh tăng năng suất ở đây quả thực là điều rất nan giải, đòi hỏi phải đầu tư tiền vốn và sức lực rất lớn thì mới có thể giải quyết được. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và mấy năm sau hoà bình, mặc dù Đảng và chính quyền địa phương có chú ý phát động nhân dân làm công tác thuỷ lợi (như đào giếng, đắp đập, khơi ngòi, v.v...) trong một phạm vi và chừng mực nhất định, nhưng nhìn chung, những cố gắng đó vẫn chưa đủ đáp ứng đến yêu cầu tưới, tiêu và canh tác ở đây. Đến năm 1958, toàn xã Xuân Minh vẫn chưa có xứ đồng nào có thể cấy được hai vụ lúa. Trong tổng số 760 mẫu ruộng đất, chỉ có 1/3 diện tích là kết hợp được một vụ lúa và một vụ màu, còn lại tất cả là chỉ làm được một vụ lúa. Cho nên, nếu năm nào bị mất mùa vì thiên tai thì đời sống nhân dân sẽ cơ cực không thể nào tả hết. Căn cứ vào tình trạng cụ thể đó mà Đảng bộ và chính quyền địa phương đã tập trung mọi cố gắng để tổ chức và lãnh đạo nhân dân làm tốt công tác thuỷ lợi trong nhiều năm liền. Đặc biệt là từ khi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập ở vùng nông thôn Xuân Minh thì công tác thuỷ lợi mới thực sự trở thành một phong trào quần chúng hết sức to lớn và mạnh mẽ. Và thực tế ở đây đã diễn ra rất đúng như đường lối của Đảng đã vạch trong giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa là hợp tác hoá phải đi đôi với thuỷ lợi hoá. Chỉ có như vậy thì mới có thể giải quyết vấn đề thâm canh tăng vụ và nâng cao năng suất cây trồng được.
Từ năm 1961-1965, hàng mấy vạn ngày công đã được huy động liên tục vào việc xây dựng hệ thống thuỷ lợi và kiến thiết lại đồng ruộng trong toàn xã (như đào mương, đắp đập, khơi hồ, khơi mau và làm bờ vùng, bờ thửa, v.v...). Trong 5 năm liền, toàn xã đã đào được gần 15.000m mương trên tất cả các xứ đồng theo một qui hoạch thống nhất, đồng thời nạo vét được hàng chục hồ mau để giữ nước và kiến thiết hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa. Nhờ đó mà việc tưới tiêu chủ động đã được khắc phục một bước rất kết quả. Năm 1963, 1964 các hợp tác xã ở đây đã được trang bị một số máy bơm loại vừa và nhỏ để phục vụ việc chống úng và chống hạn.
Nhờ những cố gắng lớn lao của công tác thuỷ lợi mà việc thâm canh, tăng năng suất cây trồng ở Xuân Minh đã bắt đầu phát triển và mở ra những triển vọng rất đáng mừng. Cuối năm 1964, hàng mấy trăm mẫu ruộng đất từ chỗ chỉ cấy được một vụ lúa, nay đã chuyển sang cấy được hai vụ lúa. Đó là một tiến bộ vượt bậc mà những năm trước chẳng bao giờ có. Đây cũng là một chứng minh hùng hồn về sự ưu việt và tính hơn hẳn của con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa so với con đường làm ăn cá thể trước kia.
Năng suất lúa và các loại hoa màu đã tăng lên trông thấy. Riêng lúa đã đạt năng suất từ 4-4,5 tấn/ha hai vụ, còn khoai cũng đạt được từ 6-7 tấn/ha.
Lúc này, phong trào thi đua học tập hợp tác xã Đông Phương Hồng (xã Thọ hải) và hợp tác xã Thắng Lợi (xã Xuân Thành) là những điển hình tiên tiến trong phong trào thâm canh tăng năng suất ở tỉnh ta được phát động rộng rãi ở Xuân Minh trên tất cả các mặt. Đặc biệt, phong trào làm phân bón ruộng đã thu hút được đông đảo lực lượng thanh niên, học sinh và nhân dân tham gia phổ biến nhất là việc làm phân xanh và tận dụng đất bùn ở các ao hồ. Bên cạnh việc sử dụng phân chuồng, nhân dân Xuân Minh cũng đã mạnh dạn dùng phân bắc để bón ruộng. ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được các nhà ủ phân đúng kỹ thuật. Trên cánh đồng, hay đường làng, ngõ xóm, ở chỗ nào không phải đất canh tác đều được tận dụng để trồng điền thanh vừa sạch mát mà vừa là nguồn phân bón rất có chất lượng. Nhờ có phong trào làm phân này mà đất đai canh tác càng được tăng độ mùn và mầu mỡ hơn.
Về công cụ lao động cũng không ngừng được cải tiến ngay sau khi thành lập hợp tác xã. ở Xuân Minh đã diễn ra phong trào bỏ cày chìa vôi, lên ngôi cày 51 và dùng cào cải tiến theo kiểu Nghệ An, v.v... Để giải phóng đôi vai, một số phương tiện vận chuyển phục vụ sản xuất như xe trâu, xe bò, xe cải tiến, xe đạp thồ, xe cút kít cũng được đưa vào sử dụng rất hiệu quả. Đường xá ra đồng cũng được mở rộng để việc vận chuyển, đi lại được thuận tiện. Năm 1964, phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi và máy bừa lần đầu tiên đã có mặt trên đồng ruộng Xuân Minh và phát huy tác dụng một cách rất tích cực. 1/3 diện tích đất đai đã được sử dụng phương tiện cơ giới. Đó là một điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động chân tay nặng nề của con người.
Từ năm 1961-1965, nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật đã được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như ngâm giống theo phương pháp ba sôi, hai lạnh, cấy dầy và bỏ nhiều phân, v.v... Việc chăm bón theo từng thời kỳ sinh lý của cây trồng cũng rất được chú ý. Một số giống cũ có năng suất thấp đã bị loại bỏ để thay thế vào đó là các giống mới có năng suất cao. Tất cả những cố gắng đó đã góp phần làm cho năng suất lúa mỗi sào tăng hơn trước từ 30-40 kg thóc.
Về chăn nuôi cũng là một tiến bộ nhanh chóng. Hợp tác xã nào cũng xây được chuồng trại chăn nuôi lợn tập thể với số lượng ban đầu từ 30-50 con. Đàn trâu, bò trong toàn xã đã có tới gần 700 con. Đó là nguồn sức kéo quan trọng trong nông nghiệp. Riêng về lợn, ngoài đàn lợn tập thể thì mỗi gia đình cũng nuôi được từ một con lợn trở lên. Ngoài ra, ở các hợp tác xã còn phát triển cả nghề nuôi cá nước ngọt ở các ao hồ và nuôi vịt đàn để lấy trứng, v.v... Nhờ đó, mà nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong xã đã được giải quyết một cách thường xuyên.
Về thủ công nghiệp: ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được lò gạch, lò vôi để cung cấp cho yêu cầu xây dựng và sản xuất. Nghề mộc, nghề nề, nghề làm giắng, đan lát, kéo sợi, v.v... cũng rất được khuyến khích để tăng thu nhập đời sống gia đình, đồng thời để phục vụ cho yêu cầu đời sống của nhân dân.
Nói chung, sự nghiệp phát triển kinh tế của nhân dân Xuân Minh trong 5 năm (1961-1965) có những biến đổi rất cơ bản và nhanh chóng. Đời sống nhân dân đã được cải thiện thêm một bước. Bộ mặt xóm làng mỗi ngày một khang trang, tươi đẹp hơn. Bên cạnh đó, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất nổi bật. So với ngày hoà bình vừa lập lại, số học sinh phổ thông của xã Xuân Minh đã tăng gấp 4 lần. Toàn xã có một trường cấp I với trên 10 lớp và gần 500 học sinh. Nhiều học sinh đã được chuyển lên học cấp II, cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp. Đến tháng 9-1965, toàn xã lại được mở thêm một trường cấp II với 4 lớp và trên 200 học sinh. Công tác bổ túc văn hoá vẫn được phát triển không ngừng. Trường vừa học vừa làm cấp II, III của Xuân Minh được ra đời trong thời gian này đã phát huy tác dụng tích cực đối với việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
Về y tế: Toàn xã có một trạm xá với 5 giường bệnh và 5 cán bộ y tế (trong đó có 1 y sĩ, 2 y tá và 2 nữ hộ sinh). ở hợp tác xã nào cũng có đội vệ sinh phòng dịch chuyên môn chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Việc tiêm chủng phòng bệnh được tiến hành thường xuyên, cho nên đã kịp thời ngăn chặn được mọi dịch bệnh. Đến năm 1965, hơn 80% gia đình đã có giếng nước và 100% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Đó là một tiến bộ vượt bậc so với những năm trước đó.
Về nếp sống mới thì đã thanh toán được triệt để các tệ nạn của xã hội cũ. Mọi đám ma, đám cưới đều do đoàn thể và hợp tác xã đứng ra tổ chức, đảm bảo được sự ấm cúng, vui vẻ và giảm bớt được sự tốn kém cho nhân dân. Do đời sống phát triển nên phong trào văn nghệ quần chúng cũng có nhiều tiến bộ. ở hợp tác xã nào cũng thành lập được đội văn nghệ và thường xuyên tổ chức phục vụ nhân dân. Công tác thông tin tuyên truyền cũng phát huy được tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn, cổ động các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ.
Tháng 3-1964, trong hội nghị chính trị đặc biệt ở Hà Nội, Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi mỗi người dân phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Đáp lời kêu gọi đó, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái thi đua làm hết sức mình để phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết là phải hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu kế hoạch được giao.
Như vậy, với thời kỳ bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa vừa xác lập đã được củng cố tăng cường vững chắc hơn. Đời sống nhân dân được cải thiện một phần cơ bản. Tình trạng bất ổn định và túng đói thường xuyên đã bị đẩy lùi. Cơ sở vật chất kỹ thuật của địa phương bước đầu được xây dựng và tăng cường. Nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa đã hình thành và đang mở ra những triển vọng tốt đẹp. Tất cả những thành quả đó đã tạo ra sức mạnh và thế đi vững chắc của nhân dân Xuân Minh trong giai đoạn mới giai đoạn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến tranh.
II. VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG VÀ CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC
Giữa lúc nhân dân ta đang dốc sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đế quốc Mỹ liều lĩnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc rất điên cuồng.
Với tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng kiên cường, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái lao vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước để giữ vững lời thề không có gì quý hơn độc lập tự do.
Bước sang thời chiến, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã nhanh chóng chuyển hướng kịp thời để thích nghi với tình hình mới. Bên cạnh việc cố gắng để duy trì và phát triển sản xuất thì công tác phòng không nhân dân và tổ chức phòng thủ chiến đấu được triển khai một cách khẩn trương, mau lẹ. Đảng bộ và chính quyền địa phương đã huy động mọi lực lượng nhân dân đào được hơn 10.000m giao thông hào chạy dọc theo các đường làng, ngõ xóm, đồng thời kiến thiết được hơn 3.000 hầm trú ẩn ở các gia đình và nơi công cộng. Các lớp học phổ thông cũng nhanh chóng được phân tán đến những nơi kín đáo để đắp thành, đắp luỹ che chắn bảo vệ cho học sinh yên tâm học tập. Các lớp học này thực sự là lớp học phòng không kiên cố. Trên những gò cao, hoặc giữa cánh đồng, các trận địa trực chiến của dân quân cũng được bố trí sẵn sàng để làm nhiệm vụ săn máy bay Mỹ ở tầm thấp. ở mỗi làng đều thành lập được các đội cứu tải thương và đội phòng cháy chữa cháy để phục vụ kịp thời khi chiến sự diễn ra. Nói chung, toàn xã đều trong tư thế sẵn sàng để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Mặc dù không phải là nơi trọng điểm đánh phá ác liệt, nhưng công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở Xuân Minh vẫn được phát huy cao độ. Trong thời gian đơn vị bộ đội ra đa về đóng tại địa phương, nhân dân Xuân Minh đã hết lòng giúp đỡ về nhiều phương diện. Hàng mấy ngàn ngày công của nhân dân trong xã đã được huy động đến để cùng với bộ đội ngày đêm kiến thiết các ụ pháo và ụ che chắn ra đa. Lực lượng dân quân trực chiến cùng với các khẩu đội pháo của bộ đội đã tạo thành thế trận vững chắc bảo vệ cho ra đa hoạt động được an toàn và liên tục.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại này, nhân dân Xuân Minh cũng đã chia sẻ tình cảm cùng với đồng bào Vĩnh Linh, Quảng Bình để đưa gần 300 cháu về nuôi và săn sóc. Đến khi kết thúc chiến tranh, các cháu đều lớn khôn và khoẻ mạnh để trở về xum họp với gia đình thân yêu sau những năm xa cách. Không những thế, nhân dân ở đây còn đón nhận và giúp đỡ một số cơ quan của tỉnh về đây sơ tán. Và trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước này, tình cảm công nông binh lại được củng cố vững chắc và tăng cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Do công tác phòng không nhân dân và sự đề cao cảnh giác ở địa phương được thực hiện tốt, cho nên, trong suốt những năm chiến tranh phá hoại, Xuân Minh vẫn không bao giờ bị lộ mục tiêu để cho địch bắn phá. Tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu không bao giờ bị giảm sút, mà trái lại, ngày một diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp hơn. Các phong trào Quyết thắng của dân quân tự vệ, Ba sẵn sàng của thanh niên, Ba đảm đang của phụ nữ, v.v... được phát động thường xuyên đã tạo ra một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi ở địa phương. Khẩu hiệu Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong suốt thời gian của hai cuộc chiến tranh phá hoại đã thực sự trở thành phương châm hành động cách mạng chung của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh.
Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều thanh niên ở đây đã hăng hái lên đường ra tiền tuyến làm nhiệm vụ chiến đấu. Trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Xuân Minh có 463 người đi bộ đội và hàng trăm người đi thanh niên xung phong, đi công nhân quốc phòng và công nhân hoả tuyến. Bình quân cứ gần 4 người dân lại có một người đi bộ đội. Đó là một tỉ lệ rất cao thể hiện sự đóng góp to lớn của nhân dân Xuân Minh đối với cuộc kháng chiến vĩ đại này. Nhờ thành tích này mà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, xã Xuân Minh đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Trên các chiến trường, nhiều đồng chí đã lập được chiến công suất sắc. Gần 500 Huân, Huy chương các loại phần thưởng cao quí của Đảng và Nhà nước đã được gắn trên ngực những người con của nhân dân Xuân Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ này đã chứng minh điều đó. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng cho sự nghiệp vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc. 102 liệt sĩ của Xuân Minh đã góp phần máu xương để tô thắm cho ngọn cờ quang vinh của Đảng.
Bên cạnh thành tích chi viện cho tiền tuyến thì thành tích về công tác hậu phương quân đội ở đây cũng là sự nổi bật. Chế độ, chính sách đối với gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được thực hiện rất đầy đủ, đặc biệt là đối với những gia đình có nhiều khó khăn đã được chính quyền, đoàn thể và hợp tác xã tập trung giúp đỡ về nhiều mặt. ở làng nào có hiện tượng chưa thực hiện tốt những chủ trương, chính sách đó đều được uốn nắn một cách kịp thời. Nhờ đó mà người ra đi và người ở lại đều phấn khởi và an tâm để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Một điều đặc biệt là suốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ở Xuân Minh không hề có một người nào đào ngũ và trốn tránh nhiệm vụ. Đó là một thành tích tiêu biểu cho truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Xuân Minh.
Song song với công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu thì nhiệm vụ duy trì và phát triển sản xuất vẫn được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm số một ở địa phương. Dưới tiếng gầm rít của máy bay và bom đạn Mỹ, trận địa sản xuất và xây dựng của Xuân Minh vẫn không ngừng phát triển và lớn mạnh. Phong trào Tay cày tay súng, tay liềm tay súng của lực lượng thanh niên và dân quân ở đây đã có tác dụng khích lệ, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái bám đồng ruộng để sản xuất. Phong trào mỗi người làm việc bằng hai cũng được phát động rất sâu rộng để tận dụng và phát huy sức lao động to lớn của mọi người.
Trong điều kiện đất đai canh tác khó khăn và luôn luôn bị thiên tai địch hoạ đe doạ, nhưng nhân dân Xuân Minh vẫn tập trung mọi cố gắng để làm thuỷ lợi, phân bón và mở rộng diện tích canh tác để thực hiện thâm canh tăng năng suất. Đến năm 1969, hơn 50% diện tích đất canh tác của Xuân Minh đã cấy được hai vụ lúa và đạt năng suất 5 tấn/ha cả năm, đồng thời đưa vụ đông trở thành vụ chính. Đó là một bước tiến đáng kể trong quá trình phát triển nông nghiệp. Lúc này, cuộc cách mạng giống và các biện pháp khoa học kỹ thuật được thực hiện phổ biến và sâu rộng cũng là một nguyên nhân làm cho năng suất thu hoạch được nâng lên. Phong trào làm ruộng tăng sản, làm bèo hoa dâu ở các làng cũng được đẩy mạnh cùng với việc cấy thẳng hàng và thực hiện các biện pháp kỹ thuật liên hoàn đã tạo ra những kết quả rất khả quan.
Bên cạnh sự tiến bộ của việc mở rộng diện tích canh tác, thâm canh tăng năng suất cây trồng và các phong trào phục vụ sản xuất khác thì về chăn nuôi cũng là một cố gắng rất lớn ở đây. Đến cuối năm 1972, đàn lợp tập thể tăng hơn so với năm 1965 là 30%. Riêng đàn lợn gia đình cũng rất phổ biến và có hiệu quả rất cao. Về đàn bò thì vẫn duy trì ở mức trên dưới 700 con.
Thắng lợi liên tục của việc phát triển sản xuất và chăn nuôi là một nguyên nhân quan trọng làm cho Xuân Minh luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu nghĩa vụ lương thực, thực phẩm của Nhà nước giao.
Nói chung, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, trải qua bao khó khăn về thiên tai, địch hoạ, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh mặc dù vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhưng vẫn giành được những tiến bộ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã (như nhà kho, sân phơi, lò giống, trại chăn nuôi, máy bơm, máy sát và nhiều công cụ cải tiến khác...) được tăng cường rất nhanh. Năng suất lúa và các loại hoa màu khác cũng đạt được những con số tiến bộ vượt bậc so với những năm trước chiến tranh. Đời sống nhân dân vẫn từng bước được cải thiện. Ngay cả lúc cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt nhất (như năm 1972) thì nhân dân Xuân Minh vẫn chắc tay cày, hay tay súng để quyết tâm phấn đấu thực hiện ba mục tiêu lớn trong nông nghiệp là: một lao động, 5 tấn thóc, 2 con lợn/ha gieo trồng. Việc phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh và toàn diện đang trên đà đi lên nhanh chóng và có rất nhiều triển vọng tốt đẹp.
Bên cạnh đấy thì sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất đáng tự hào. Mọi biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt đời sống đã được phê phán và uốn nắn kịp thời. Đội văn nghệ của xã vẫn thường xuyên mang lời ca tiếng hát để phục vụ kịp thời cuộc sống sản xuất chiến đấu ở địa phương. Trong hội diễn văn nghệ của tỉnh năm 1975, tiết mục biểu diễn của đội văn nghệ Xuân Minh đã vinh dự được tặng thưởng huy chương vàng. Tốc độ của ngành giáo dục phổ thông ở đây cũng phát triển rất nhanh. Đến năm 1975, trường cấp I, cấp II của xã có trên 700 học sinh và 26 giáo viên, nhiều năm liền được công nhận là trường tiên tiến của huyện. Số học sinh khá và giỏi mỗi ngày một tăng lên. Nhiều em còn được tham dự các kỳ thi học sinh giỏi của huyện, của tỉnh. Trường vừa học vừa làm (cấp II, cấp III) của xã được tỉnh, huyện công nhận là một điển hình về phong trào bổ túc văn hoá ở cơ sở đã và đang phát huy tác dụng cho việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ và con em nhân dân ở trong xã. Trong cuộc chiến tranh phá hoại, mặc dù có nhiều gian nan vất vả, nhưng số lượng học sinh chuyển lên cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp mỗi ngày một nhiều. Riêng hợp tác xã cũng cử nhiều cán bộ vào học ở các trường trung cấp, sơ cấp, để đào tạo thành những cán bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, thú y, cơ khí, v.v... để phục vụ trực tiếp tại địa phương. Nhà trẻ và nhà mẫu giáo của các làng cũng được phát triển, đã có tác dụng rất tốt cho nhân dân yên tâm lao động và sản xuất. Về y tế thì ở xã còn có thêm một trạm chống lao để điều trị người bệnh. Công tác vệ sinh phòng bệnh được thực hiện sâu rộng đến từng đội sản xuất Trạm xá xã đã có nhiều cố gắng đối với việc khám và chữa bệnh cho nhân dân.
Có thể nói, thông qua các phong trào chiến đấu, lao động sản xuất và phát triển văn hoá, xã hội mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh lại được củng cố và tăng cường. Đến năm 1974, tất cả các hợp tác xã ở đây đã được tháp lại để chuyển làm qui mô toàn xã. Đó là một thuận lợi rất cơ bản cho việc quản lý và điều hành sản xuất theo một guồng máy và qui hoạch thống nhất. Từ đó, phong trào tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước về quản lý trong nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa tại Xuân Minh được mở rộng từng bước một cách vững chắc.
Mùa xuân năm 1975, với cuộc tổng tấn công và nổi dậy ở miền Nam mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nửa đất nước thân yêu còn lại của chúng ta được hoàn toàn giải phóng. Từ đây, trong điều kiện Tổ quốc thống nhất, nhân dân cả hai miền Nam Bắc đã cùng chung một nhiệm vụ là giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 5
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG GIÀU MẠNH VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 2009)
I. KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ XÃ HỘI (1975 1985)
Tháng 12-1976, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), đồng thời đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là:
Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội1
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, Đảng bộ Xuân Minh đã tập trung mọi cố gắng để lãnh đạo nhân dân ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân và hoàn thành xuất sắc mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Từ đó cho đến năm 1980, sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hoá của Xuân Minh đã tiến những bước mới rất cơ bản. Việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên các mặt sản xuất, xây dựng và tổ chức đời sống được triển khai thường xuyên cùng với việc phát động rộng rãi các phong trào thi đua lao động sản xuất và cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của Xuân Minh mau đổi mới. Đảng bộ xã luôn luôn tổ chức những cuộc đấu tranh phê bình để tìm ra những mặt yếu kém về quản lý và tổ chức chỉ đạo sản xuất, rồi từ đó đề ra được những biện pháp tích cực để khắc phục nhằm thúc đẩy nền kinh tế ở địa phương phát triển toàn diện và cân đối lên một bước mới.
Trong những năm này, hàng trăm, hàng ngàn nhân lực lao động ở Xuân Minh đã lần lượt thay thế nhau để đi tham gia lao động trên các đại công trường thủ công như: Quảng Châu, sông Lý, sông Hoàng, sông Mực, Lạch Bạng, hồ chứa nước Yên Mỹ, kênh Tam Điệp, v.v... để góp phần thiết thực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng thuỷ lợi to lớn ở tỉnh ta.
Trên đồng ruộng của mình, nhân dân Xuân Minh đã ra sức cải tạo và kiến thiết lại một cách hợp lý cho phù hợp với hướng phát triển sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mặt khác, mở rộng diện tích trồng lúa hai vụ và cây công nghiệp, phục vụ xuất khẩu. Đến năm 1980, Xuân Minh không những là một trọng điểm lúa mà còn là một trọng điểm lạc ở vùng tả ngạn sông Chu của huyện Thọ Xuân.
Công tác thuỷ lợi để giải quyết vấn đề tưới tiêu ở Xuân Minh vẫn là khâu cơ bản trọng yếu, đòi hỏi phải có sự đầu tư, trang bị qui mô và khoa học của địa phương và sự giúp đỡ, hỗ trợ thêm của Nhà nước thì mới có thể khắc phục một cách ổn định được. Trong lúc chưa đủ điều kiện để giải quyết một cách triệt để, nhân dân Xuân Minh vẫn chủ động, quyết tâm khắc phục từng bước một cách cơ bản để phục vụ cho việc thâm canh tăng năng suất một đòi hỏi rất bức thiết lúc này. Trên mọi xứ đồng, hệ thống kênh mương đã được tu bổ và làm thêm một cách khẩn trương. Bên cạnh đó, việc khắc phục tình trạng lồi lõm và cao thấp không đều trên đồng ruộng cũng được tiến hành một cách gấp rút để việc tưới, tiêu được dễ dàng. Lúc này, hợp tác còn đầu tư và trang bị thêm một số máy bơm chạy dầu để khai thác nguồn nước ở sông Cầu Chày và các hồ ao. Việc tăng cường sử dụng phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi, máy bừa cũng giúp một phần quan trọng làm cho đồng ruộng Xuân Minh bằng phẳng và đỡ lồi lõm hơn. Chính tất cả những cố gắng này mà Xuân Minh mới thực hiện được việc thâm canh tăng vụ. Mặc dù không có hệ thống nông giang và điều kiện đất đai thuận lợi như các địa phương ở vùng hữu ngạn sông Chu, nhưng Xuân Minh vẫn phấn đấu giữ vững thành tích 5 tấn/ha hai vụ lúa, đồng thời cố gắng tăng cường mọi biện pháp tích cực để đưa năng suất cây trồng mỗi ngày một cao hơn.
So với một số địa phương khác ở trong tỉnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của Xuân Minh vẫn còn nghèo, nhưng dù sao, đến năm 1980 với những cái gì đã có cũng phần nào đáp ứng kịp thời những yêu cầu cần thiết của việc phát triển sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân.
Phong trào Định công hoá và học tập các điển hình tiên tiến của tỉnh trong những năm này cũng có tác dụng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh có nhiều chuyển biến rất rõ rệt, đặc biệt là việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong việc quản lý và điều hành sản xuất. Đội ngũ cán bộ quản lý từ hợp tác xã đến các đội sản xuất được kiện toàn và bổ sung những người có năng lực, nhiệt tình cách mạng vào để thay thế những người có tư tưởng bảo thủ, tuỳ tiện và vô trách nhiệm. Phần lớn cán bộ quản lý từ đội đến hợp tác xã đều được đào tạo qua thử thách, rèn luyện ở địa phương và đều đã qua học tập, bồi dưỡng ở những lớp chính trị, quản lý ngắn hoặc dài ngày do tỉnh và huyện mở. Nhờ đó mà tầm nhìn và khả năng điều hành sản xuất của đội ngũ này được nâng lên.
Với sự cố gắng, quyết tâm rất cao của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, hợp tác xã và toàn thể nhân dân, mà Xuân Minh từ một xã có nhiều khó khăn về điều kiện đất đai, canh tác đã trở thành một xã vững vàng trong phát triển sản xuất, đặc biệt là việc sản xuất lương thực và chăn nuôi là những mặt có nhiều tiến bộ nhất. Trong các năm (từ 1976-1980), nghĩa vụ lương thực và thực phẩm ở đây luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu được giao. Chính thành quả của việc phát triển sản xuất đó đã giúp cho Xuân Minh thúc đẩy được các phong trào thi đua xây dựng, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi bọn phản động bành trướng, bá quyền Bắc Kinh ra mặt phản bội và phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta thì ở Xuân Minh, hàng trăm thanh niên lại phát huy truyền thống cách mạng kiên cường của những ngày đánh Pháp và đánh Mỹ để hăng hái lên đường ra biên giới phía Bắc và phía Tây Nam làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Trong tình hình mới, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã quán triệt Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X (1979) để thực hiện phương hướng chiến lược chung ở trong tỉnh là:
Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết nhất trí, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi nhân tố tích cực, khắc phục mọi khó khăn và những mặt tiêu cực, tiếp tục tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý, kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhằm đẩy mạnh và mở rộng các ngành sản xuất, tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các yêu cầu của chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Đồng thời làm tốt nhiệm vụ quốc tế, nhất là đối với tỉnh bạn Hủa Phăn. Cho đến nay, sự phấn đấu đó đã và đang trở thành những hiện thực hết sức tốt đẹp1.
Từ năm 1981 trở đi, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phấn đấu một cách cao nhất để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, chỉ tiêu trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985), góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngay từ năm 1981 năm đầu tiên bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, Đảng bộ Xuân Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (13-1-1981) về việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (mà lúc đó gọi là khoán 100). Nhờ đó, mà chỉ sau một thời gian ngắn, ý thức làm chủ ruộng đồng và năng suất lao động của các xã viên đã tăng lên rõ rệt. Lúc này, Đảng uỷ xác định việc hoàn chỉnh công tác thuỷ lợi là một trung tâm hàng đầu cần phải được tập trung toàn tâm, toàn lực để giải quyết một cách dứt điểm và nhanh chóng nhất. Và chỉ có như vậy thì mới có thể chấm dứt được tình trạng hạn, úng một khó khăn thường xuyên diễn ra ở đây. Thời gian này, tỉnh cũng nhất trí đầu tư hỗ trợ cho Xuân Minh về tiền vốn, vật tư, thiết bị để xây dựng ở đây một trạm bơm điện cỡ vừa.
Đến năm 1983, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Sở Thuỷ lợi và Công ty Điện lực Thanh Hoá, cộng với sự cố gắng to lớn của toàn thể Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh mà trạm bơm điện của địa phương tại sông Cầu Chày đã được xây dựng hoàn chỉnh và chính thức bước vào hoạt động phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp. Thế là, sau bao nhiêu năm ước mơ và phấn đấu, vấn đề chủ động giải quyết nguồn nước tưới cho hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của Xuân Minh đã trở thành hiện thực. Có thể nói ngày khánh thành trạm bơm điện Xuân Minh đã thực sự trở thành một ngày hội lớn của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Từ đây, vấn đề thâm canh, tăng vụ và tăng năng suất cây trồng sẽ mở ra nhiều triển vọng và hứa hẹn tốt đẹp.
Qua thực tế của mấy vụ đầu (từ 1983 đến nay), năng suất thu hoạch ở Xuân Minh đã tăng lên trông thấy. Bình quân mỗi sào đã đạt được từ một tạ rưỡi đến hai tạ lúa. Đó là những con số kỷ lục mà trong những năm trước đây chẳng bao giờ có. Với đà này, triển vọng 6, 7, 8 tấn/ha hai vụ lúa của Xuân Minh đã xích lại rất gần trong tầm tay với.
Trong thời gian tới, vấn đề kiến thiết đồng ruộng và tu bổ, cải tạo hợp lý hệ thống tưới tiêu trong toàn xã vẫn còn phải tiếp tục hoàn chỉnh thêm một bước để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển sản xuất và thâm canh tăng năng suất ở đây.
Mấy năm vừa qua, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã được đẩy mạnh và áp dụng phổ biến tại Xuân Minh. Hợp tác xã cũng rất chú ý đến việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất. Việc cải tạo đất và kiến thiết đồng ruộng, việc tận dụng các nguồn phân hữu cơ đi đôi với việc tăng cường phân hoá học, việc phòng trừ sâu bệnh và các biện pháp kỹ thuật liên hoàn, gieo cấy, chăm bón, v.v... được phát động rộng rãi, thường xuyên cũng góp phần tích cực để năng suất thu hoạch ở địa phương mỗi ngày một tăng lên.
Trong tổng số hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của toàn xã bây giờ, về cơ bản đã được qui hoạch lại để sử dụng theo hướng thâm canh và chuyên canh mà tỉnh và huyện đề ra để nhằm mục đích phát triển trồng trọt, chăn nuôi và xuất khẩu. ở đây, ngoài 70% diện tích để thâm canh lúa, hợp tác xã còn giành gần 30% diện tích để trồng lạc và các loại hoa mầu khác. Riêng về lạc trong năm 1983, xã Xuân Minh được công nhận là xã loại hai ở trong tỉnh có thành tích về sản xuất lạc để xuất khẩu.
Trên cơ sở thực hiện tốt tinh thần của Chỉ thị khoán 100, việc bố trí lực lượng lao động cũng được sắp xếp lại một cách hợp lý để tận dụng triệt để sức lao động ở trong xã. ở đây, ngoài lực lượng đông đảo tập trung vào việc trồng trọt, chăn nuôi, còn có các đội chuyên về thuỷ lợi, về ngành nghề, v.v... Tất cả những cố gắng đó đã làm cho Xuân Minh ngày càng phát huy được nhiều về hiệu quả lao động cũng như về đất đai tại địa phương. Cũng bởi vì thế mà mọi chỉ tiêu nghĩa vụ Nhà nước qui định đều được thực hiện mỗi ngày một cao hơn.
Về nghĩa vụ lương thực, cả năm 1982 chỉ có 160 tấn thì năm 1985 lại tăng lên đến mức 520 tấn và thực tế đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Về nghĩa vụ thực phẩm trong hai năm 1982 1983 cũng hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao. Năm 1982, đạt 22 tấn với số lợn là 1.200 con. Năm 1983, tăng lên 32 tấn và số lợn là 1.500 con.
Ở Xuân Minh, ngoài đàn lợn tập thể thì đàn lợn của gia đình cũng phát triển một cách nhanh chóng. Nếu như những năm trước, mỗi gia đình chỉ nuôi bình quân cả năm được 1 con đến 1,5 con thì giờ đây đã nuôi được từ 2 con trở lên trong cả năm. Do đó, trong mấy năm vừa qua, ngoài việc đảm bảo lợn nghĩa vụ, nhân dân trong xã còn hăng hái tự nguyện bán lợn cho Nhà nước theo giá khuyến khích và đổi hàng. Bên cạnh đó, việc phát triển chăn nuôi cá cũng đã được chú ý hơn trước. Diện tích thả cá được tu bổ và mở rộng nhiều hơn. Hàng năm, toàn xã cũng thu hoạch được hàng chục tấn cá. Đó là nguồn thực phẩm quan trọng để giải quyết nhu cầu đời sống nhân dân.
Với những thành quả đạt được trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, và hiện tại, đã đi vào thế tương đối ổn định. Năm 1985, gần 100% gia đình ở trong xã đã có nhà ngói, sân gạch với cả một hệ thống giếng nước, nhà tắm và nhà xí rất sạch sẽ. Phần lớn các gia đình đều có xe đạp và các đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt cần thiết. Gần 20% gia đình có đài bán dẫn để nghe thời sự, tin tức. So với trước Cách mạng tháng Tám thì hiện thực đó là sự đổi đời to lớn và là sự tiến bộ vượt bậc. Tất cả những cảnh thiếu đói, mất bữa đã được giải quyết triệt để. Những cảnh gác hái thì treo niêu và mùa đông thì đắp chiếu, mùa hè thì che mưa như thời kỳ trước cách mạng đã vĩnh viễn qua từ lâu rồi. Giờ đây, nhu cầu đời sống ngày càng cao, đòi hỏi toàn thể mọi người trong xã phải quyết tâm rất lớn để đưa nền kinh tế Xuân Minh phát triển lên trình độ cao một cách toàn diện thì sự ấm no, hạnh phúc mới bền vững và đúng ý nghĩa một cách trọn vẹn.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật cũng góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá và ngược lại, cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá cũng góp phần tích cực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Thực tế đó đã thể hiện rất rõ ở Xuân Minh.
Cho đến nay, sự nghiệp văn hoá xã hội của Xuân Minh cũng phát triển một cách toàn diện và đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Về văn hoá: Việc xây dựng nếp sống mới và con người mới xã hội chủ nghĩa ở địa phương được chú trọng đặc biệt. Nhờ đó mà quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong xã được phát huy cao độ trên tất cả mọi lĩnh vực. Đến lúc này, ý thức và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân đã trở thành một bản tính tốt đẹp rất phổ biến. Ai ai cũng đều có ý thức trách nhiệm đối với lợi ích của tập thể và Nhà nước. Mọi biểu hiện tiêu cực, chống đối, lạc hậu và mê tín dị đoan đã được giải quyết một cách triệt để, để nhường chỗ cho nếp sống văn minh lành mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa được bao trùm. Hiện nay, toàn xã có riêng một Chi bộ văn hoá để tập trung chỉ đạo công tác này rất hiệu quả. Nhà thư viện được thành lập trong mấy năm qua đã phát huy tác dụng tích cực trong việc phục vụ sản xuất và nâng cao tri thức cách mạng và khoa học kỹ thuật cho cán bộ, nhân dân. Đội văn nghệ mạnh của xã cũng tích cực phục vụ đời sống sản xuất và chiến đấu ở địa phương. Nhiều vở kịch tự biên, tự diễn đã cổ vũ, khen chê kịp thời, đã có tác dụng phục vụ các nhiệm vụ chính trị rất nhạy bén. Đội thông tin lưu động cũng thường xuyên cổ động, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó cũng là một mũi nhọn của trận địa tuyên truyền ở địa phương.
Về giáo dục: Đến năm 1985, trường phổ thông cơ sở (cấp I, II) của Xuân Minh đã có tất cả là 26 lớp với trên một ngàn học sinh và 45 giáo viên. Chất lượng giảng dạy và học tập ở nhà trường mỗi ngày một tiến bộ. Số học sinh vào trường cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp tăng lên gấp bội so với mấy năm trước đó. Hiện nay, toàn xã đã có gần 400 người có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hiện đang công tác ở các cơ quan, đơn vị nhà nước, trong đó có hai người đạt trình độ phó tiến sĩ. Trường vừa học vừa làm của xã bây giờ có 4 lớp (từ lớp 10 đến lớp 12) và gần 200 học sinh. Đó cũng là một trong số những trường tiên tiến của huyện. Toàn xã có một hệ thống nhà trẻ, nhà mẫu giáo rất chu đáo, đã phát huy rất tích cực trong việc nuôi, dạy trẻ để phục vụ nhân dân yên tâm lao động, sản xuất.
Về y tế: Trạm xá xã hiện nay có 3 y sỹ, 2 y tá và 10 giường bệnh. Ngoài ra, ở đây còn có một trạm chống lao cách ly và 8 giường bệnh, do 1 y tá chuyên trách điều trị. Việc kết hợp điều trị đông, tây y cũng được chú trọng. Hàng năm, công tác vệ sinh phòng bệnh và tiêm chủng được thực hiện chu đáo. Đường làng, ngõ xóm mỗi ngày một sạch sẽ, phong quang. Nếp sống ăn ở vệ sinh đã trở thành phổ biến. Nhờ vậy mà ở Xuân Minh, các dịch bệnh nguy hiểm đã hạn chế và được ngăn chặn kịp thời.
Về thể dục thể thao thì xã cũng xây dựng được sân bóng đá, bóng chuyền để thanh niên, học sinh thường xuyên tập luyện và thi đấu.
Trải qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ xã Xuân Minh cũng lớn mạnh không ngừng. Cho đến năm 1985, toàn Đảng bộ có 282 đảng viên. Số đảng viên trẻ có năng lực và nhiệt tình cách mạng đã được bổ sung khá đông đảo. Đặc biệt là lực lượng đảng viên nữ ngày càng tỏ ra có nhiều khả năng đóng góp cho sự lớn mạnh của phong trào. Mấy năm qua, Đảng bộ luôn luôn tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị và đấu tranh phê bình cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ không ngừng được tăng cường. Nói chung, toàn thể Đảng bộ Xuân Minh hiện nay rất đoàn kết, nhất trí cho nên, đã trở thành một động lực quyết định để thúc đẩy phong trào ở đây phát triển một cách toàn diện và vững chắc.
Tóm lại, từ năm 1954 đến 1985, trải qua 31 năm phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. 31 năm đó được ghi vào lịch sử xã nhà như một đoạn đường thắng lợi vẻ vang. Sau 31 năm, bộ mặt đời sống xã hội, kinh tế của địa phương thay đổi một cách toàn diện cùng đất nước.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phát huy mọi khả năng, cố gắng để tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa để thiết thực góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ tiếp theo.
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA XUÂN MINH TRONG 23 NĂM THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN (1986 2009)
Đến năm 1985, sau mấy năm thựchiện chỉ thị khoán 100, tình hình sản xuất và quản lý lao động ở Xuân Minh nói riêng và trong huyện, trong tỉnh nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ năm 1981- 1985, chỉ trong 5 năm, từ một xã nghèo và nhiều khó khăn bất cập, Xuân Minh đã có nhiều cố gắng phấn đấu để trở thành một trong vài xã tiên tiến ở vùng tả ngạn của huyện Thọ Xuân. Trong những năm này, Xuân Minh còn được biểu dương liên tục về tinh thần vượt khó và sự năng động trong điều hành sản xuất cũng như sự chú trọng đến phát triển ngành nghề. Đặc biệt là do khai thác đựơc nguồn than đá với giá cả hợp lý mà việc nung gạch, ngói, vôi phục vụ nhu cầu đời sống, xây dựng và sản xuất của nhân dân trong xã được đáp ứng một cách kịp thời, đầy đủ hơn. Tuy nhiên đến năm 1985, việc thực hiện Chỉ thị khoán 100 cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế, tiêu cực, rõ nhất là việc xuất hiện tình trạng khoán trắng khá cao đối với nhóm và người lao động, đồng thời thực hiện không đúng với nguyên tắc "năm khâu 3 việc" như Chỉ thị 100 đã đề ra, cho nên đã dẫn đến sự mất cân bằng trong việc định công, chấm điểm và ăn chia phân phối v.v... Để nhanh chóng khắc phục tình trạng khoán trắng tiêu cực này, Đảng uỷ xã Xuân Minh đã tiến hành kiểm tra, uốn nắn sử lý kịp thời những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong đội ngũ cán bộ Đảng viên (mà chủ yếu là là ở Ban quản trị và đội ngũ sản xuất...). Nhờ đó mà tình hình chính trị, tư tưởng và các phong trào thi đua sản xuất đã trở lại ổn định để phát triển một cách thực chất hơn.
Tháng 11- 1985, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ Thọ Xuân, Đại hội Đảng bộ xã Xuân Minh đã được tổ chức để xác định nhiệm vụ và hướng đi mới trong thời gian tới. Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Xuân Hữu (nguyên Thiếu tá quân đội nghỉ chế độ tại địa phương) được tín nhiệm bầu làm Bí thư. Với nhiều gương mặt mới, Ban chấp hành Đảng bộ xã khoá này đã có nhiều cố gắng trong việc ổn định tình hình tổ chức, tư tưởng sau một vài biến động xử lý tiêu cực tại địa phương, đồng thời tiếp tục duy trì giữ vững phong trào thi đua sản xuất theo mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ đã đề ra để đáp ứng với niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã.
Bước sang năm 1986, tình hình chính trị kinh tế, xã hội của Thanh Hoá cũng như cả nước đều đứng trước những khó khăn gay gắt (như sản xuất tăng chậm và hiệu quả thấp, phân phối lưu thông có nhiều lúng túng, đời sống nhân dân còn nghèo, tiêu cực lại có chiều hướng tăng...). Bên cạnh đó, tình hình quốc tế lại đang diễn biến phức tạp, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đang tiến hành đuờng lối cải cách nhưng lại trong tình trạng khủng hoảng và mất ổn định nghiêm trọng. Điều đó cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến hướng đi của chúng ta.
Tháng 12- 1986, để tìm cách vượt qua những khó khăn thử thách nghiêm trọng đang diễn ra, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã tổ chức khẩn trương tại thủ đô Hà Nội. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật và nghiêm khắc chỉ ra nhũng sai lầm khuyết điểm, Đại hội VI đã thống nhất định ra một đường lối Đổi mới - thông thoáng, mở cửa, hội nhập để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tiến lên một cách toàn diện, vững chắc. Đến các Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX, Đảng ta vẫn kiên định lập trường đổi mới theo hướng ngày một cụ thể, hoàn thiện hơn.
Thấm nhuần đướng lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh đoàn kết một lòng để quyết tâm đem hết tinh thần, sức lực thực hiện tiếp tục hai nhiện vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cơ sở "phải đổi mới tư duy", trước hết là tư duy kinh tế, đồng thời đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác v.v...Trước mắt toàn xã cũng như toàn huyện, toàn tỉnh cần tập trung thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục tiêu kinh tế là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh cũng phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách. Đó là sự thiếu thốn nghiêm trọng về tiền vốn, vật tư, làm hạn chế rất nhiều đến việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất nông nghiệp. Việc vay vốn ngân hàng đến việc thu mua và bao tiêu sản phẩm đều có nhiều bất cập, cộng thêm vào đó là có sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường làm giá cả bấp bênh đã gây ảnh hưởng đến sản xuất và người lao động. Trong công cuộc đổi mới, việc tiếp cận với các tiến bộ khoa học kỹ thuật của cán bộ và nhân dân trong xa cũng còn nhiều hạn chế, và lề thói làm ăn nhỏ lẻ phân tán, lạc hậu manh mún của nhân dân vẫn chưa chấm dứt cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc canh tác theo quy hoạch thâm canh và định canh. Ngoài ra, trước những tác động gay gắt của cơ chế thị trường, việc quản lý tổ chức thực hiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của đội ngũ cán bộ trong xã còn biểu hiện sự lúng túng và thiếu kinh nghiệm. Do đó, trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ đặc biệt chú trọng đến việc đổi mới đội ngũ cán bộ trên cở sở kiện toàn theo quy trình dân chủ để lựa chọn, đề bạt bổ sung kịp thời những người có trình độ năng lực, phẩm chất tốt với xu hướng trẻ hoá từng bước để gánh vác những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng bộ và nhân dân giao phó. Và nhiệm vụ này đã được thực hiện tốt qua các kỳ Đại hội Đảng bộ từng năm 1986- 1987 cho đến nay. Với truyền thống của quê hương cách mạng luôn lấy đoàn kết làm mục tiêu then chốt, cán bộ Đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã chung sức chung lòng tháo gỡ khó khăn từng bước để vươn lên giành thắng lợi theo đường lối đổi mới.
Ngày 5 tháng 4 năm 1988, để khắc phục kịp thời những hạn chế, tiêu cực trong việc thực hiện khoán 100, mở ra hướng phát triển mới trong nông nghiệp, Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết trung ương 10 về quản lý nông nghiệp với nội dung khoán mới đó là việc khoán hộ (vì vậy mà chúng ta vẫn quyen gọi là chính sách khoán hộ là "khoán 10").
Ở Xuân Minh với việc thực hiện chính sách khoán hộ mà từ năm 1988 trở đi tình hình sản xuất nông nghiệp nói riêng và tình hình kinh tế - xã hội nói chung đã có sự chuyển biến rõ rệt, nhanh chóng rất đáng mừng. Từ đây, trên mảnh đất được giao, người nông dân mới thực sự được phát huy quyền làm chủ của mình để lao động sản xuất một cách nhiệt tình với hiệu quả cao nhất. Nhờ chính sách này mà hộ nông dân nắm quyền chủ động trong tất cả các khâu sản xuất (từ cày bừa, gieo cấy, giống, phân đến thu hoạch ....) và tiêu thụ sản phẩm, còn hợp tác xã nông nghiệp chuyển dần sang mô hình hợp tác xã dịch vụ, phục vụ các yêu của nông dân trên cở sở thoả thuận và ký kết hợp đồng. Còn việc điều hành sản xuất và thu thuế đất là nhiệm vụ của chính quyền xã.
Trong bước chuyển đổi mới của mình, hợp tác xã dịch vụ xã Xuân Minh đã từng bước phát huy được vai trò của mình trong việc xây dựng kế hoạch bám sát thời vụ, hướng dẫn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi và cung ứng kịp thời giống, phân bón, vật tư, nguyên liệu thiết yếu cho nông dân, đồng thời làm tốt nhiệm vụ điều tiết nước và tưới tiêu hiệu quả trên khắp các xứ đồng v.v..
Đến năm 1993, thực hiện Chỉ thị 02/ CT- TU của trung ương về việc giao đất lâu dài cho nông dân, Đảng uỷ và chính quyền xã Xuân Minh đã chỉ đạo chặt chẽ việc đo đạc ruộng đất, phân mảnh định hạng chuẩn xác để phân chia ruộng đất cho các hộ theo nhân khẩu một cách công bằng trên tinh thần có gần, có xa, có xấu, có tốt. Tuy nhiên, đối với hộ chính sách có khó khăn thì trong lúc phân chia, xã cũng có sự ưu tiên hơn các hộ bình thường khác. Từ đây, hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế độc lập. Tất cả mọi ruộng đất ao hồ, đồng bãi đựơc giao quyền sử dụng lâu dài, hộ nông dân vẫn có quyền chuyển nhượng, thuê khoán và sản xuất một cách hoàn toàn chủ động. Nhờ đó mà đã giải phóng được sức sản xuất và phát huy vai trò làm chủ của các hộ nông dân trong mở mang sản xuất tuỳ theo trình độ, khả năng cho phép. Với việc phân chia ruộng đất lâu dài cho nông dân và việc đem khoán thầu của các khu vực đất hoang hoá, hoặc các diện tích mặt nước chưa được phát huy đã mở ra thời kỳ phát triển các trang trại trồng trọt, chăn nuôi,hoặc mô hình vườn- ao- chuồng một cách hiệu quả ở các làng trong xã.
Sau những năm thực hiện chính sách khoán hộ và giao đất lâu dài cho nông dân, tình hình sản xuất và kinh tế xã hội của xã Xuân Minh có sự chuyển biến rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc giao đất cho nông dân còn bộc lộ sự manh mún, phân tán, gây khó khăn trở ngại đến việc đầu tư thâm canh, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và thực hiện các tiến bộ khoa học kỹ thuật v.v... Ngoài ra, việc chia đất manh mún còn làm cho việc quản lý và khai thác theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ rất khó thực hiện.
Để khắc phục tình trạng trên, từ tháng 7 năm 1998, sau một thời gian ngắn có 3 tháng, cuộc vận động đổi điền, dồn thửa theo tinh thần Chỉ thị số 11 của huyện uỷ Thọ Xuân (ký ngày 25 tháng 6 năm 1998) ở Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành. Thực chất, đây là cuộc vận động cách mạng sâu rộng không phải mấy dễ dàng, nhưng với kết quả thu đựơc đã tạo ra những điều kiện thuận lợi phát huy nội lực và khai thác tối đa tiềm năng lao động đất đai để phát triển sản xuất theo xu hướng công nghiệp hoá, hiệnđại hoá. Toàn xã từ trên 2500 thửa, đến nay còn lại 2146 thửa (giảm được gần 1/2 thửa so với trước). Điều đó có tác dụng khắc phục được rất nhiều tình trạng phân tán và manh mún trong sản xuất, đồng thời tạo ra điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình đầu tư thâm canh và phát huy tiềm năng đất đai một cách ổn định, lâu dài hơn.
Như vây, từ năm 1996 đến 2000, do nhận thức đầy đủ các chủ trương chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước và biết vận dụng sáng tạo, phù hợp vào điều kiện thực tế của địa phương, Đảng bộ Xuân Minh đã lãnh đạo chính quyền và nhân dân trong xã thực hiện một cách có hiệu quả việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tại chỗ, rồi từng bước vươn ra thị trường trong, ngoài huyện và đẩy mạnh khai thác tối đa tiềm năng lao động, đất đai để tạo ra nguồn lực phát triển một nền kinh tế nông nghiệp toàn diện, vững chắc. Trong những năm này (1996- 2000), sản xuất nông nghiệp đã có những tiến bộ khá toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi và trồng cây công nghiệp (như mía) để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đường Lam Sơn.
Do biết tận dụng khai thác tiềm năng đất đai, lao động, vật tư, tiền vốn đến việc tích cực vận dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị thu nhập cao mà sự thu nhập kinh tế của Xuân Minh trên lĩnh vực sản xuất đều tăng tiến nhanh chóng. Riêng tổng sản phẩm lương thực quy ra thóc bình quân trong 5 năm (từ năm 1996- 2000) đã đạt tới mức 2593 tấn/ năm ( tăng 11,3% so với mức bình quân giai đoạn 1990- 1995). Còn về chăn nuôi, tổng đàn lợn lúc này cũng đạt bình quân 1666 con/ năm (tăng 10,5% so với 5 năm trước). Riêng về trâu bò cũng đạt bình quân 435 con/năm. Ngoài ra, sản lượng cá và các loại gia cầm khác cũng đều tăng so với trước.
Đến năm 2000, lĩnh vực công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dich vụ mua bán ở Xuân Minh cũng phát triển đa dạng (như mộc dân dụng, cơ khí sửa chữa, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản và thức ăn gia súc cùng sự hình thành một số tụ điểm dịch vụ mua bán v.v...) đã tạo điều kiện cho sự chuyển dịch kinh tế ở từng làng và ở nhiều hộ gia đình, góp phần giải quyết việc làm và năng cao mức sống cho người lao động.
Nhìn chung, từ năm 1996- đến 2000, nền kinh tế của Xuân Minh đã thực sự đi vào thế ổn đinh, tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 7,5% GDP bình quân đầu người năm 1995 đạt 123,6 USD, năm 1999 đạt 155,2 USD. Tổng sản lượng quy thóc tăng 11,5% so với mức bình quân thời kỳ 1991 - 1995. Ngoài việc đảm bảo nhu cầu lương thực và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, mỗi năm Xuân Minh có 1000 tấn lương thực hàng hoá được lưu thông trên thị trường trong, ngoài huyện. Tổng thu ngân sách nhà nước thời kỳ 1996 - 2000 tăng gấp 3,2 lần so với 5 năm trước.
Trong những năm qua, do biết huy động được nhiều nguồn vốn và công sức của nhân dân, đồng thời biết tranh thủ được nhiều nguồn vốn hỗ trở của các ngành, các cấp từ huyện trở lên, hệ thống điện - đường- trường- trạm và các công trình hạ tầng cở sở nói chung đã được đầu tư xây dựng khá nhiều (như xây dựng trạm bơm Thiên Lộc, nâng cấp phối đường Lê Hoàn, đường các thôn Quang Trung, Vinh Quang, bê tông hoá đường thôn Thuần Hậu, kiên cố hoá kênh mương, xây dựng trạm xá và trường mầm non, nhà văn hoá và khu làm việc của xã v.v...).
Do kinh tế phát triển mà đến năm 2005, ở Xuân Minh, số hộ có mức sống trung bình trở lên chiếm 85%, số hộ có nhà bê tông kiên cố là 195 hộ, nhà tranh che tạm bợ đã hoàn toàn xoá sổ, 100% số hộ được sử dụng điện sáng. Cả xã có 15 ôtô và xe công nông, 25 hộ có máy cày bừa phục vụ sản xuất, 872 hộ có máy thu hình, 347 hộ có xe máy,230 hộ có điện thoại.
Như vậy, từ năm 1986- 2009, sau 23 năm gia sức phấn đấu thành công trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh đã thu được nhiều thành tựu rất đáng kể:
- Thành tựu kinh tế:
Đến năm 2008, tổng thu nhập GDP của xã đạt ở mức 37 tỷ đồng ( trong đó nông lâm nghiệp chiếm 55%, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ 25% và dịch vụ khác 20%). Bình quân đầu người trong thời điểm từ 2005- 2009 đạt 7 triệu đồng/ năm. Tổng sản lượng quy thóc phấn đấu ổn định ở mức 3500 tấn/ năm. Riêng sản lượng mía nguyên liệu ổn định hàng năm từ 3600 - 4000 tấn. Giá trị sản xuất/ ha canh tác bình quân từ 30 triệu đồng trở lên. Có nhiều cánh đồng đã đạt từ mức 40 - 50 triệu đồng/ ha.
Về chăn nuôi, năm 1995 tổng đàn trâu bò của xã là 900 con, đến năm 2008 đã tăng lên trên 2000 con, bình quân mỗi hộ đã nuôi từ hai con trở lên. Trong những năm từ 2005- 2009, ngoài việc củng cố phát triển đàn gia súc, việc phát triển đàn gia cầm cũng rất được chú trọng theo hướng bán công nghiệp để phấn đấu đến năm 2010 đưa giá trị chăn nuôi tăng gấp 3 lần so với năm 2005.
Trong 10 năm trở lại đây (2000- 2009), bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều đạt 10% trở lên. Việc thu ngân sách hàng năm cũng tăng bình quân hơn 5%/ năm.
Về xây dựng: đã kiên cố hoá đường giao thông liên thôn và bê tông hoá xong hệ thống đường ở các thôn, xóm. Do biết tập trung nguồn vốn, nên đến năm 2009 đã xây dựng xong khu trường mầm non và bổ sung, nâng cấp cở sở vật chất trường trung học cở sở đạt yêu cầu chuẩn quốc gia. Ngoài ra, xã còn đầu tư nâng cấp khu công sở để đảm bảo nơi làm việc cho bộ máy Đảng, chính quyền và khối đoàn thể mặt trận nói chung.
Do kinh tế có sự phát triển vượt bậc mà trong những năm qua tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn mới) mỗi năm đã giảm từ 2- 3%. Đến năm 2009, số hộ nghèo còn hơn 4%.
So với thời kỳ trước đổi mới, bộ mặt của các làng xóm và xã nói chung đã có sự đổi thay to lớn. Giờ đây, mỗi khi đi xa về, bất kỳ ai cũng đều cảm nhận rõ ràng rằng quê nghèo Xuân Minh xưa kia giờ đây đã là vùng nông thôn hiện đại, khang trang với đầy đủ hệ thống hạ tầng cơ sở điện đường - trường - trại và nhà cửa kiên cố mọc lên liên tiếp theo quy hoạch dọc, ngang thẳng tắp. Công cuộc đổi điền, dồn thửa lần hai trong năm 2009 này đã thành công (từ 5280 thửa năm 1998 dồn lại chỉ còn 2146 thửa), mở ra một hướng sản xuất thâm canh và khai thác đất đai của toàn xã càng trở nên hiệu quả. Các phương tiện cơ giới có thể đi được từ xứ đồng này đến xứ đồng khác nhờ có sự mở rộng kiên cố hoá đường kênh mương, nội đồng....
Với đà này, chỉ trong vài năm tới, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Xuân Minh chắc chắn sẽ còn gặt hái được nhiều thành tựu to lớn và đáng kể hơn nữa.
- Thành tựu về văn hoá - xã hội:
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ( 1986- 2009), bên cạnh những thành tựu về kinh tế, Xuân Minh còn có những tiến bộ vượt bậc trên lĩnh vực văn hoá xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới, mặc dù còn rất nhiều bất cập, khó khăn về vật tư, tiền vốn, nhưng vì có sự nhận thức đúng xem giáo dục là quốc sách hàng đầu để tiến hành thành công đường lối đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng bộ, chính quyền xã Xuân Minh vẫn dành sự ưu tiên số một cho việc đầu tư nâng cấp các hệ thống trường, lớp cùng trang thiết bị phục vụ việc dạy và học trong trường. Nhờ đó mà đến nay, hệ thống trường phổ thông ( cấp I, cấp II) và nhà trẻ mẫu giáo đã hoàn thiện, nâng cấp cả về quy mô, hình thức theo hướng chuẩn quốc gia. Toàn xã đã cơ bản hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù trong độ tuổi. Hàng năm tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp các cấp đều tăng lên trông thấy. Số học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh và số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp mỗi năm một nhiều hơn. Tính đến nay, toàn xã Xuân Minh đã có hơn 300 người có trình độ đại học và trên đại học hiện đang công tác trên khắp mọi miền đất nước. Nhiều học sinh từ mái trường Xuân Minh ra đi, nhờ học hành đỗ đạt và công tác tốt đã trưởng thành và giữ nhiều trọng trách trong xã hội, làm vẻ vang cho đất nước quê hương.So với nhiều vùng quê trong huyện, thì Xuân Minh luôn là nơi được đánh giá là có truyền thống hiếu học. Mặc dù trong thời buổi cơ chế thị trường, nhưng "đạo lý tôn sư trọng đạo" và quan hệ giữa nhà trường với gia đình và xã hội vẫn được phát huy một cách tốt nhất. Chính nhờ đó mà trong thời gian qua, ngành giáo dục ở Xuân Minh đã có sự tiến bộ vượt bậc. Các trường tiểu học, trung học cơ sở và trường mầm non trong thời gian qua liên tiếp được công nhận là trường tiên tiến cấp huyện. Riêng trường tiểu học đã được cấp trên công nhận là trường chuẩn quốc gia trong giai đoạn từ năm 2000 - 2005.
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII về việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở Xuân Minh đã liên tục phát động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới ở tất cả các làng. Trong giai đoạn từ 2000- 2005, Xuân Minh đã khai trương được 3 làng văn hoá (gồm Ngọc Trung, Quang Hoa, Thiên Lộc) và một cơ quan văn hoá là trường tiểu học, đồng thời làm thủ tục đề nghị công nhận một làng văn hoá cấp tỉnh, 1 làng văn hoá cấp huyện. Cho đến nay đã có 6/6 làng đều khai trương xây dựng làng văn hoá, trong đó có 2 làng đựoc công nhận làng văn hoá cấp tỉnh và 1 làng được công nhận làng văn hoá cấp huyện. Nhờ đó chương trình xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được chú trọng thường xuyên, cho nên nếp sống văn minh trong sinh hoạt, cưới xin, tang lễ, hội họp có nhiều chuyển biến rất tích cực. Hàng năm, số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá chiểm từ 70- 80%.
Thời kỳ này, do kinh tế phát triển nên hoạt động văn nghệ và thể dục thể thao được duy trì và hoạt động rất sôi nổi. Riêng về thể dục thể thao, xã đã thành lập đụơc câu lạc bộ bóng bàn, cầu lông, bóng chuyền, bóng đá và hai đội thể dục dưỡng sinh cho người cao tuổi (ở thôn Phong Cốc và Vinh Quang). Hiện tại đã có 6/6 thôn có trung tâm văn hoá, 5/6 thôn có sân vận động bóng đá, bóng chuyền, cầu lông. Nhìn chung, cơ sở thể dục thể thao đựơc tăng cường đều khắp. Công tác giáo dục thể chất trong nhà trường cũng được coi trọng và chú ý thường xuyên.
Về lĩnh vực y tế , dân số và kế hoạch hoá gia đình là một tiến bộ nổi bật ở Xuân Minh. Trong những năm qua, công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đựơc quan tâm cải thiện không ngừng. Mạng lưới y tế từ xã đến thôn đựơc củng cố tăng cường đã phát huy tốt công tác khám và điều trị thông thường, đồng thời thực hiện đầy đủ các chương trình y tế quốc gia, tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, vệ sinh môi trường v.v... Nhờ đó mà đã hạn chế và ngăn chặn kịp thời các loại dịch bệnh. Trạm xá xã với cơ ngơi đầy đủ và lực lượng bác sĩ, y sĩ , y tá, nữ hộ sinh đúng tiêu chuẩn đã trở thành một trung tâm y tế đáng tin cậy của nhân dân. Hiện nay, trạm xá xã cũng được công nhận là đơn vị chuẩn quốc gia. Về dân số, do công tác truyền thông triển khai tích cực và hiệu quả nên đã làm ổn định việc tăng dân số tự nhiên hàng năm ở trong xã chỉ ở mức từ 0,7- 0,8%
Bên cạnh thành tích về giáo dục, văn hoá-thể thao và y tế, xã cũng có nhiều tiến bộ về việc thực hiện tốt các chính sách xã hội và xoá đói giảm nghèo. Việc chi trả các chế độ và quan tâm thăm hỏi các gia đình có công với cách mạng, các gia đình thương binh, liệt sỹ và các đối tượng chính sách khác là những việc rất được lãnh đạo xã chú trọng thực hiện một cách đầy đủ và không có gì đáng tiếc xảy ra. Các hoạt động xoá đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa và giúp đỡ thiết thực đối với các đối tượng khó khăn đặc biệt, hoặc quan tâm động viên đối với những học sinh nghèo vượt khó v.v.....đều là những hoạt động tích cực mang tính nhân văn tốt đẹp ở Xuân Minh trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Thành tựu về an ninh - quốc phòng
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá từ 1986 đến nay, công tác an ninh, quốc phòng ở Xuân Minh vẩn luôn được chú trọng một cách đặc biệt. Nhờ đó mà địa phương luôn giữ được thế ổn định để phát triển.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, xã Xuân Minh đã cương quyết đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, các hành vi đi ngược với pháp luật để bảo vệ an nịnh tại địa phương. Trong quá trình thực hiện chủ trương bảo vệ an ninh Tổ quốc, an ninh nông thôn, xã đã rất chú trọng đến việc cũng cố xây dựng lực lượng công an nhân dân và hệ thống tổ dân cư tự quản, nhờ đó kịp thời phát hiện, xử lý ngăn chặn các hành vi phạm pháp, tiêu cực diễn ra tại địa bàn. Với những hoạt động và đóng góp tích cực trong việc đảm bảo trật tự an ninh tại địa phương mà lực lượng công an xã đã mấy lần được công nhận danh hiệu là đơn vị quyết thắng.
Về công tác quốc phòng, xã cũng rất chú trọng đến việc củng cố xây dựng, tổ chức lực lượng quốc phòng và khu vực phòng thủ vững chắc phù hợp với điều kiện địa phương để sẵn sằng đối phó với bầt kỳ tình huống xấu nào xảy ra. Trong nhiều năm qua, do làm tốt công tác tư tưởng trong lực lượng thanh niên mà công tác nghĩa vụ quân sự của Xuân Minh luôn hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu kế hoạch được giao. Giữ vũng truyền thống của quê hương cách mạng, tất cả mọi quân nhân người Xuân Minh đều ra sức phấn đấu để xứng danh là bộ đội cụ Hồ. Từ năm 1986 đế nay, trong xã không có trường hợp nào đào ngũ và chốn tránh nghĩa vụ. Với thành tích đã đạt được, Xuân Minh đã vinh dự được huyện, tỉnh khen thưởng và công nhận là địa phương có phong trào hoạt động quân sự tốt.
- Những thành tựu trong cống tác củng cố, xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá (1986 - 2009), mặc dù trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp nhưng toàn thể Đảng viên trong Đảng bộ Xuân Minh vẫn kiên định lập trường theo đường lối mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Qua thực tiễn hoạt động, Đảng bộ Xuân Minh đã đóng góp vai trò hết sức quan trọng, góp phần quyết định mọi thắng lợi trong xã, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Tuy nhiên, con đường đi lên của Đảng bộ Xuân Minh trong thời kỳ đổi mới, côngnghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn không phải lúc nào cũng dễ dàng, bằng phẳng, mà liên tục gặp những khó khăn, thử thách. Có lúc trong nội bộ phát sinh những mâu thuẫn và mất đoàn kết kéo dài. Thậm chí như khoá Đảng bộ giai đoạn từ 2000- 2005, do kiện cáo về việc chia, bán đất, một số cán bộ chủ chốt trong Đảng bộ đã bị thanh tra, kiểm điểm mà hậu quả cho đến nay vẫn còn phải tiếp tục tháo gỡ. Nhưng với truyền thống đoàn kết nhất trí của một vùng quê cách mạng, Đảng bộ Xuân Minh đã kiên quyết đấu tranh loại bỏ những biểu hiện tiêu cực đi ngược lại với quyền lợi của toàn thể cán bộ, Đảng viên và nhân dân trong xã để làm cho Đảng bộ xứng đáng với danh hiệu là Đảng bộ trong sạch, vũng mạnh. Trong thời gian từ cuối năm 1985- 2009, Đảng bộ Xuân Minh đã trải qua 7 kỳ Đại hội như:
+ Đại hội khoá 1985- 1987 (tổ chức vào tháng 11 năm 1985, do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu làm Bí thư )
+ Đại hội khoá 1987- 1991 (tổ chức vào thang 6 - 1987, do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu làm Bí thư)
+ Đại hội khóa 1991- 1994 (tổ chức vào tháng 3 năm 199, do đồng chí Trịnh Văn Đảm làm Bí thư )
+ Đại hội khoá 1994- 1996 (tổ chức tháng 6 năm 1994, do đồng chí Trịnh Văn Đảm làm Bí thư )
+ Đại hội khoá 1996- 2000 (tổ chức vào tháng 1 năm 1996, do đồng chí Trịnh Văn Đảm làm Bí thư)
+ Đại hội khoá 2000- 2005 (tổ chức vào tháng 10 năm 2000, do đồng chí mai Văn Tôn làm Bí thư)
+ Đại hội khoá 2005- 2010 (tổ chức vào tháng 8 năm 2005, do đồng chí Nguyễn Văn Lương làm bí thư)
Trong suốt 7 khoá đại hội nêu trên, Đảng bộ Xuân Minh đều rất kiên định lập trường theo đường lối đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá của Đảng, đồng thời biết vận dụng đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng một cách sáng tạo và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của địa phương trên cơ sở phát huy tối đa thế mạnh về nguồn lực lao động, đất đai sẵn có để từng bước đưa xã nhà từ chỗ còn nhiều khó khăn bất cập thành một địa phương có nền kinh tế phát triển mỗi ngày một toàn diện, vững chắc hơn. Trong quá trình đó, Đảng bộ đã biết gắn kết giữa công cuộc đổi mới công nghiệp hoá - hiện đại hoá với việc củng cố, phát triển Đảng. Ngoài việc tăng cường hiệu lực và chất lượng hoạt động của Đảng uỷ, công tác củng cố các chi bộ cơ sở cũng được xác định là nhiệm vụ rất quan trọng để làm tăng cường sức chiến đấu của Đảng bộ. Đáp ứng với sự đòi hỏi ngày một cao trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng bộ cũng rất chú trọng việc nâng cao trình độ, nhận thức của cán bộ, Đảng viên trên cơ sở tăng cường học tập lý luận và chuyên môn nghiệp vụ trên tất cả mọi lĩnh vực (như giai đoạn 2000- 2005, Đảng uỷ đã cử ra 6 đồng chí tham gia học trung cấp lý luận chính trị, 4 đồng chí học trung cấp quản lý nhà nước, 2 đồng chí đi học Đại học nông nghiệp, 1 đồng chí học trung cấp quân sự, 1 đồng chí học văn phòng, 2 đồng chí học trung cấp pháp lý, 1 đồng chí học trung cấp địa chính v.v....). Nhờ đó mà đến nay, bộ máy Đảng uỷ, uỷ ban nhân dân, đội ngũ cán bộ chuyên trách và công chức đã cơ bản được chuẩn hoá theo quy định của trên.
Trong những năm qua, công tác chính trị - tư tưởng được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của toàn Đảng bộ. Ngoài việc liên tục cho toàn thể cán bộ, Đảng viên học tập lý luận, chính trị để nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng uỷ còn làm cho mọi cán bộ, đảng viên phải quán triệt đầy đủ sâu sắc mọi chỉ thị, nghị quyết của Đảng để làm cho Đảng bộ có thêm sức mạnh thực hiện thành công công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Từ việc được giáo dục, rèn luyện nâng cao năng lực phẩm chất chính trị một cách thường xuyên mà đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Xuân Minh luôn luôn đầu tầu gương mẫu trong mọi phong trào và ngày càng đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.
Thời gian qua, nhờ việc thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ thông qua phê bình và tự phê bình mà đã tạo ra đựơc sự thống nhất về tư tưởng, hành động trong toàn Đảng bộ, góp phần ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên nên mới giữ vững được kỷ cương, kỷ luật, nâng cao vai trò và sức chiến đấu của tổ chức Đảng.Vai trò của Đảng uỷ, chi uỷ cũng đựơc nâng lên để gánh vác các nhiệm vụ mà Đảng bộ giao phó. Nhờ sự cố gắng không ngừng của tất cả mọi cán bộ, Đảng viên mà đến năm 2004, trong Đảng bộ Xuân Minh không còn chi bộ nào là yếu kém. Cũng trong năm này, Đảng bộ Xuân Minh đã vinh dự đựợc ban thường vụ tỉnh uỷ tặng bằng khen về thành tích luôn đạt là Đảng bộ trong sạch và vững mạnh.
Bên cạnh những nhiệm vụ trọng tâm, Đảng bộ Xuân Minh cũng rất chú ý, quan tâm đến việc phát triển Đảng. Chỉ riêng từ năm 2000- 2005, tất cả các chi bộ đã bồi dưỡng được 42 quần chúng ưu tú và chọn lựa kết nạp được 32 Đảng viên mới.
Hiện nay (2009), toàn bộ Đảng bộ Xuân Minh có 313 đảng viên, sinh hoạt trong 9 chi bộ (gồm 6 chi bộ nông thôn và 3 chi bộ nhà trường). So với các thời kỳ trước thì đây là thời kỳ mà hệ thống tổ chức cơ sở đảng ở Xuân Minh có sự phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh những đảng viên đã được tôi luyện, thử thách qua nhiều thời kỳ công tác, Đảng bộ còn bổ sung đựơc nhiều đảng viên trẻ có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. Vì vậy mà sức chiến đấu của Đảng bộ ngày càng được phát huy hơn.
Có thể nói, trong 23 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn (1986- 2009), Đảng bộ Xuân Minh đã có sự trưởng thành vượt bậc và liên tiếp gặt hái được những thành công đáng kể trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội và an ninh - quốc phòng. Qua thực tiễn, Đảng bộ thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy cảu chính quyền, đoàn thể và nhân dân. Là một xã trước thời kỳ đổi mới còn nhiều khó khăn, bất cập, nhưng nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ mà cho đến nay, Xuân Minh đã có sự tiến bộ vượt bậc toàn diện so với trước. Chính sự quyết tâm của Đảng bộ trong việc lãnh đạo toàn dân thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu trồng trọt, vật nuôi và phát triển đồng bộ, hợp lý giữa trồng trọt, chăn nuôi với ngành nghề, dịch vụ, thương mại cùng sự mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất mà đã vực dậy nền kinh tế địa phương một cách nhanh chóng, làm cho đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân được cải thiện không ngừng gấp nhiều lần so với thời điểm trước năm 1986.
Bên cạnh hệ thống tổ chức Đảng mỗi ngày một vững mạnh, Xuân Minh còn một bộ máy chính quyền từ xã đến thôn, xóm cũng rất nhiệt tình năng động, đã có đóng góp đáng kể trong việc quản lý, điều hành kinh tế, xã hội tại địa phương. Trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nhiều cương vị chủ chốt đựoc trẻ hoá đã tỏ rõ năng lực công tác và nhiệt tình cách mạng trước nhân dân.
Trong thời gian qua, ngoài sự điều hành của chính quyền xã, vai trò của trưởng thôn, trưởng xóm cũng góp một phần quan trọng đến việc đôn đốc, điều hành các phong trào cơ sở. Thời kỳ đổi mới mở của và cơ chế thị trường, bộ máy chính quyền xã cũng có nhiều cố gắng tích cực trong việc tìm hướng liên doanh, liên kết, đầu vào, đầu ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời khuyến khích các hộ nông dân tự huy động vốn để phát triển ngành nghề, dịch vụ, thương mại, hoặc phát triển kinh tế vườn - ao - chuồng và cánh đồng 50 triêu đồng/ 1 ha v.v... Ngoài ra, chính quyền còn biết khai thác nguồn vốn hỗ trợ của các ngành, các cấp và sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở điện- đường - trường- trạm và thuỷ lợi nói chung. Việc quản lý đất đai, đổi điền dồn thửa, định hướng quy hoạch sản xuất để thực hiện thâm canh, chuyên canh theo hướng hiện đại hoá cũng là nét nổi bật trong hoạt động của bộ máy chính quyền ở đây. Bên cạnh việc điều hành tốt nhiệm vụ kinh tế, sản xuất, bộ máy chính quyền của Xuân Minh còn rất tích cực trong việc thực hiên an ninh, quốc phòng. Nhờ đó mà tình hình trật tự, trị an ở các làng trong xã luôn ổn định, vững chắc. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, một vài cán bộ chủ chốt của xã cũng đã mắc những sai lầm về quản lý và chia, bán đất đai, gây kiện cáo kéo dài (như thời điểm 2005), nhưng đây cũng chỉ là hiện tượng cá biệt được tháo gỡ, xử lý, ngăn chặn kịp thời nên hậu quả không thực sự nghiêm trọng và đáng tiếc như nhiều địa phương khác.
Phối hợp hỗ trợ cùng Đảng uỷ, chính quyền là hệ thống đoàn thể mặt trận, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh v.v... cũng rất tích cực hoạt động và tỏ rõ là lực lượng đầu tàu, gương mẫu đi đầu các phong trào quần chúng trong thời kỳ đổi mới, đồng thời đã tỏ rõ vai trò tích cực trong việc động viên mọi tầng lớp quần chúng thực hiện đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước để góp phần thiết thực vào sự phồn vinh của quê hương, đất nước. Riêng tổ chức mặt trận tổ quốc đã có nhiều đóng góp tích cực cho việc tăng cường khối đại đoàn kết trong xã. Tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thực sự là lực lượng hậu bị và cánh tay phải của Đảng đã đi đầu trong mọi phong trào, nhất là phong trào làm kinh tế giỏi và giám gánh vác những công việc trọng trách, khó khăn mà Đảng bộ và nhân dân giao phó. Từ các phong trào kinh tế, văn hoá - xã hội và an ninh quốc phòng, nhiều thanh niên đã được rèn luyện, thử thách và vinh dự được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng v.v....
Như vây, trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, với sự cũng cố và phát triển đồng bộ hệ thống đảng, chính quyển, đoàn thể, mặt trận và các tổ chức quần chúng mà đã tạo nên động lực và yếu tố quyết định cho xã Xuân Minh từng bước tiến lên một cách toàn diện, vững chắc. Giờ đây, với những gì đã đạt được, nhất định Xuân Minh sẽ còn tiến mạnh tiến xa trong thời kỳ đi tiếp.
CHƯƠNG 6
TIẾP TỤC SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, XUÂN MINH ĐÃ GẶT HÁI ĐƯỢC NHIỀU THÀNH CÔNG ĐÁNG KỂ (2010-2023)
I. PHÁT HUY CAO ĐỘ NỘI LỰC, TRANH THỦ CÓ HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC BÊN NGOÀI, TIẾP TỤC ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI XÂY DỰNG XÃ NÔNG THÔN MỚI (2010-2015)
Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 04 tháng 8 năm 2009 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 40-KH/TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 01năm 2011, Đảng bộ xã Xuân Minh tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2010-2015.
Báo cáo chính trị trình Đại hội nêu rõ: Trong nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng bộ và Nhân dân trong xã cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ, một số mục tiêu vượt so với Đại hội đề ra Đại hội cũng đã chỉ rõ những tồn tại khuyết điểm: Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi còn chậm, một bộ phận cán bộ, đảng viên, Nhân dân có tư tưởng bảo thủ, chưa phát huy hết tiềm năng đất đai, lao động hiện có phát triển kinh tế ở địa phương chủ yếu vẫn thuần nông, độc canh
Sau khi thảo luận, Đại hội nhất trí thông qua Báo cáo chính trị, báo cáo kiểm điểm của Ban chấp hành, các báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia vào dự thảo các văn kiện của Trung ương, của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVI trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu nhiệm kỳ 2010-2015 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nhanh nhất có hiệu quả nhất các nguồn lực bên ngoài, đẩy nhanh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất phục vụ đời sống, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy tối đa nguồn lực con người, nâng cao chất lượng giáo dục, các hoạt động văn hoá theo hướng xã hội hoá, kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế xã hội với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, củng cố giữ vững quốc phòng an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng tổ chức Đảng, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh .
Đại hội xác định các mục tiêu chủ yếu về kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị. Đại hội đề ra những giải pháp và xác định 4 chương trình trọng tâm: 1. Xây dựng trường Mầm non, Trường Trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia; 2. Xây dựng 2 đến 3 thôn đạt tiên chí nông thôn mới; 3. Xây dựng nâng cấp khu công sở; 4. Bê tông hoá 70% đường mương nội đồng.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồn 13 đồng chí. Trong phiên họp thứ nhất, Ban chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 3 đồng chí. Đồng chí Đỗ Huy Chân được bầu làm Bí thư Đảng uỷ; đồng chí Nguyễn Văn Sơn và Võ Văn Quang được bầu làm Phó Bí thư (đồng chí Nguyễn Văn Sơn được phân công phụ trách chính quyền và đồng chí Võ văn Quang làm Thường trực Đảng uỷ).
Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2010-2015 trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Về thuận lợi: Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách phát triển kinh tế, xã hội nhất là các chính sách về an sinh xã hội, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh. Đặc biệt chủ trương xây dựng nông thôn mới và cơ chế chính sách xây dựng nông thôn mới đã tác động mạnh đến tư tưởng cán bộ, đảng viên cũng như các tầng lớp Nhân dân. Bên cạnh đó, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn ổn định đã tạo được sự bình yên trong các khu dân cư, niềm tin của các tầng lớp Nhân dân vào chủ trương đường lối của Đảng ở địa phương ngày càng được tăng cường.
Khó khăn: Thời gian này tình hình lạm phát vẫn tăng cao, giá cả thị trường không ổn định, nguồn đầu tư công giảm, giá đầu ra của các sản phẩm nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp thấp; dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp; bảo lụt, nắng nóng diễn biến bất thường là những nhân tố ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Trong bối cảnh như vậy, nhưng Đảng bộ và Nhân dân trong xã không quản ngại khó khăn, thử thách đồng sức, đồng lòng phát huy nguồn nội lực sẵn có của quê hương đó là truyền thống của một vùng quê cách mạng đã phấn đấu thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra trên tất cả các lĩnh vực.
1. Về phát triển kinh tế
Để tạo thế và lực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã xác định phải tạo ra sự đột phá ngay từ tháng đầu, năm đầu với tinh thần là cải thiện quan nệ, thu hút đầu tư. Năm 2011, Đảng uỷ lãnh đạo Nhân dân tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, mùa vụ, tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từng bước làm cơ sở cho các thôn phát triển nâng cao sản xuất, sản lượng hiệu quả. Năm 2012, Ban chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HU về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thọ Xuân giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2025, Đảng uỷ đã chủ động tăng cường công tác tuyên truyền, vận động làm chuyển biến sâu sắc nhận thức, hành động của các tổ chức chính trị, xã hội và các tầng lớp Nhân dân trong đổi mới và phát triển các hình thức sản xuất nhằm tạo khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp tháng 4 năm 2013 HTX Dịch vụ nông nghiệp xã Xuân Minh được thành lập đã tập trung tuyên truyền vận động nhân dân tích tụ ruộng đất từng bước hình thành cánh đồng mẫu lớn tạo điều kiện thuận lợi cho cơ giới hóa đồng bộ thực hiện việc liên doanh, liên kết sản xuất, chuyển giao ứng dụng khoa học kỷ thuật, vật tư nông nghiệp và bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Năm 2015, Ban chấp hành Tỉnh uỷ ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TU về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trong đó, Nghị quyết chỉ rõ: phải đột phá về tổ chức sản xuất, đột phá về ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đột phá về chất lượng sản phẩm trong nông nghiệp và đột phá về đầu tư về nông nghiệp, nông thôn
Vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng cấp trên vào điều kiện cụ thể của địa phương, Đảng uỷ đã chỉ đạo triển khai thực hiện với nhiều giải pháp thiết thực. Vì vậy kinh tế của xã đã có bước tăng trưởng rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng hằng năm bình quân 15,5% (vượt 2,5% so với Nghị quyết Đại hội); cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng Nông nghiệp 35,9%; Tiểu thủ công nghiệp xây dựng 26%; Dịch vụ, thương mại 38,1%. Bình quân thu nhập đầu người, đến năm 2015 đạt 19,16 triệu đồng (năm 2014 đạt 18,9 triệu đồng). Tổng sản lượng lương thực hàng năm bình quân 3.200 tấn; tổng sản lượng mía nguyên liệu đạt 5.525 tấn (năm 2015). Tổng đàn trâu bò, bình quân 600 con/năm; tổng đàn lợn đạt 2.500 con. Bình quân lương thực đầu người đạt 650kg/năm. Trong 5 năm xã đã chuyển đổi 30ha diện tích lúa, màu năng xuất thấp sang trồng các cây công nghiệp năng xuất, hiệu quả cao. Đồng thời Đảng uỷ đã lãnh đạo thực hiện tốt việc đổi điền dồn thửa, quy hoạch 80% diện tích lúa vào vùng thâm canh, quy hoạch hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng, đã xây dựng bê tông hoá 3,5km giao thông và 6,2km mương nội đồng trị giá gần 2 tỷ đồng. Xã đầu tư mua thêm 6 máy gặt đập liên hợp, 60 máy làm đất. Đến năm 2015, 100% diện tích đất nông nghiệp, 80% diện tích lúa thu hoạch đã được cơ giới hoá. Xã thành lập hợp tác xã cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, làm mạ khay, máng cấy phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao góp phần nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho lao động nông thôn, cải thiện đời sống cho Nhân dân, xoá bỏ dần các thói quen sản xuất lạc hậu.
Thời gian này, lĩnh vực chăn nuôi tiếp tục được Trung ương, tỉnh, huyện quan tâm thông qua nhiều cơ chế, chính sách phát triển chăn nuôi. Vì vậy, mặc dù giai đoạn 2005-2010, chăn nuôi không phát triển được, nhưng đến thời điểm này Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã đẩy mạnh chăn nuôi gia đình, nhất là tạo điệu kiện cho các hộ xây dựng các trang trại tổng hợp. Đến năm 2015, toàn xã vẫn đạt tổng đàn lợn 1.800 con; đàn gia cầm 30.000 con. Xã quy hoạch vùng đất ven sông Cầu Chày xây dựng 7 trang trại tổng hợp, 2 trang trại quy mô lớn. Chăn nuôi trang trại, gia trại trong các khu dân cư vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong các hộ nông nghiệp.
Về sản xuất các ngành nghề và xây dựng cơ bản: Xã đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho một số ngành nghề phát triển như nghề mộc, nề, hàn xì, kinh doanh dịch vụ, xay sát chế biến. Đã thu hút và tạo việc làm thường xuyên cho trên 300 lao động. Nhiều tổ thợ, hộ gia đình mở rộng các loại hình sản xuất kinh doanh như cơ khí, vận tải, may mặc, hàng trăm người nông dân có việc làm thêm và tăng thêm nguồn thu nhập.
Trong lĩnh vực xây dựng: Xã đã chỉ đạo tập trung xây dựng, cải tạo nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong 5 năm, tổng số vốn đấu tư xây dựng các công trình phúc lợ về văn hoá, giao thông thuỷ lợi đạt gần 26 tỷ đồng trong đó có một số công trìnhchào mừng Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVII như công trình nhà công sở, Hội trường xã ; vốn đầu tư phục vụ sản xuất nông nghiệp 5 tỷ đồng; vốn đầu tư của người dân cho xây dựng nhà ở và các công trình phụ cận phục vụ sinh hoạt của bà con Nhân dân gần 51 tỷ đồng (tăng 2,5 lần so với nhiệm kỳ 2005-2010).
Về dịch vụ - thương mại: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, xã đã có chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để bà con nhân dân đầu tư buôn bán kinh doanh. Vì vậy thời gian này dịch vụ và thương mại trên địa bàn phát triển nhanh, đa dạng các mặt hàng, các cơ sở buôn bán. Đến năm 2015, tỷ trọng dịch vụ - thương mại chiếm 38,1% trong cơ cấu kinh tế của xã đáp ứng tốt hơn nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống Nhân dân.
Về công tác quản lý đất đai và môi trường nhất là quản lý đất đai, được quan tâm chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Trong nhiệm kỳ, đã chuyển đổi mục đích từ đất nông nghiệp sang đất ở 1,3ha đảm bảo quy hoạch phát triển dân cư; lập hồ sơ cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho các hộ dân theo số liệu đo đạc mới đạt 100%.
Công tác vệ sinh môi trường có nhiều chuyển biến tích cực. Ý thức vệ sinh môi trường của bà con Nhân dân trong các thôn được nâng lên. Xã đã xây dựng khu chứa rác thải tập trung. Đến năm 2015, toàn xã có 98% hộ nông dân có công trình nước sinh hoạt hợp vệ sinh; gần 80 hộ có nhà vệ sinh tự hoại; các hộ chăn nuôi nhiều đều có hầm Biogas, góp phần tích cực trong việc cải thiện ô nhiễm môi trường ở khu dân cư.
2. Về văn hoá xã hội:
Có nhiều chuyển biến tiến bộ, an sinh xã hội được chăm lo, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao hơn.
Hoạt động văn hoá thông tin, tuyên truyền được triển khai đa dạng, thiết thực, hiệu quả. Đến năm 2015, xã đã đầu tư nâng cấp, sửa chữa hệ thống truyền thanh trị giá 300.000.000 đồng, 100% hộ gia đình có ti vi, phương tiện thông tin liên lạc, sử dụng mạng Internet tăng gấp 4 lần (năm 2010). Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/HU ngày 26/10/2010 của Ban Thường vụ Huyện uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động của làng, cơ quan văn hoá và thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội, việc cưới, việc tang, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã đã kiện toàn ban chỉ đạo, ban quản lý làng, cơ quan văn hoá; kịp thời bổ sung quy ước, hương ước của làng, cơ quan văn hoá phù hợp với yêu cầu mới đặt ra. Phát huy tính tự quản của cộng đồng trên cơ sở nâng cao vai trò tuyên truyền cho đoàn viên, hội viên, cán bộ, công chức, viên chức và cộng đồng dân cư tự giác thực hiện quy ước, hương ước làng, cơ quan văn hoá gắn với triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong 5 năm bình quân hằng năm xã có từ 82-86% hộ đạt gia đình văn hoá; 80-95% hộ đạt danh hiệu gia đình mẫu mực, con cháu hiếu thảo; 6/6 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá. Xã khai trương xây dựng 01 cơ quan văn hoá.
Việc cưới, việc tang cũng được triển khai thực hiện nghiêm túc, trang trọng, tiết kiệm, chu đáo, đảm bảo vệ sinh môi trường. Công tác trùng tu, tôn tạo cụm di tích cách mạng được quan tâm. Đến năm 2015 xã đã hoàn thành 07/13 điểm bia dẫn tích cụm di tích cách mạng.
Phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao phát triển rộng rãi. Cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt động thể thao từng bước được nâng lên. Các câu lạc bộ, các môn thể thao như bóng chuyền, cầu lông, được tổ chức thường xuyên. Toàn xã 100% số thôn có sân chơi thể thao; 30% dân số thường xuyên rèn luyện thể thao. Đoàn thể thao của xã tham gia các hội thi do huyện tổ chức đều đạt giải.
Về giáo dục đào tạo: Luôn luôn được quan tâm đúng mức. Đảng uỷ đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/1/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 5 năm chất lượng giáo dục toàn diện được chú trọng nâng cao. Tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp trung bình hằng năm đạt 98% trở lên. Đội ngũ giáo viên luôn được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Đến năm 2015, 100% giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Ba trường trong xã, đều đạt trường chuẩn quốc gia. Hằng năm có từ 25-30 học sinh thi đậu vào các trường Đại học; 30-35 học sinh đậu vào các trường cao đẳng
Việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trường học, phòng học chức năng được xã và Nhân dân hết sức quan tâm đặc biệt là xây dưng khu trường Mầm Non tập trung 5.900.000 m2 (Từ các điểm dưới thôn nay được tập trung về xã) Tổng đầu tư cho giáo dục trong 5 năm đạt 4,2 tỷ đồng, . Việc dạy thêm, học thêm được quản lý tốt. Công tác khuyến học xã hội hoá giáo dục và các hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng có nhiều chuyển biến. 6/6 thôn, 100% các dòng họ có quỹ khuyến học với số dư lên tới gần 100 triệu đồng; Trung tâm học tập cộng đồng trung bình mỗi năm mở được từ 12 15 lớp bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật, kiến thức pháp luật cho các đoàn viên, hội viên, các tầng lớp Nhân dân góp phần nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nghề trong Nhân dân.
Về y tế, có nhiều chuyển biến tích cực, khu nhà khám chữa bệnh được đầu tư xây dựng gồm 12 phòng, trang thiết bị phục vụ cho việc khám chữa bệnh được đầu tư, các công trình phụ trợ được đầu tư, nâng cấp chất lượng khám, chữa bệnh chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân được nâng lên. Trạm y tế xã đã quan tâm khám chữa bệnh cho người nghèo, các đối tượng chính sách. Công tác y tế dự phòng được tăng cường, kịp thời dập tắt các ổ dịch, không để dịch bệnh xảy ra trên diện rộng. Công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, các chương trình quốc gia về y tế, dân số, gia đình và trẻ em được xã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Năm 2015, xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế (theo bộ tiêu chí mới). Tỷ lệ tăng dân số hằng năm là 0,52%. Số người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng tăng, toàn xã có trên 80% số người đã có thẻ bảo hiểm y tế.
Công tác an sinh xã hội được đặc biệt quan tâm. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với người có công, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Các phong trào Đền ơn đáp nghĩa, Uống nước nhớ nguồn, Quỹ vì người nghèo, v.v được phát động sâu rộng và duy trì thường xuyên. Hằng năm Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các đoàn thể chính trị, xã hội tổ chức thăm hỏi, tặng quà nhân các ngày lễ, tết cho các gia đình chính sách, thương, bệnh binh và các gia đình có hoàn cảnh khó khăn Đồng thời Đảng uỷ đã chỉ đạo các cấp, các thôn đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm. Hằng năm xã phối hợp mở được từ 2 đến 3 lớp dạng nghề và tư vấn xuất khẩu lao động. Đến năm 2015, xã đã giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động nông nghiệp và 54 người xuất khẩu lao động góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 151 hộ (năm 2010) xuống 59 hộ (năm 2015). Các loại hình bảo hiểm tự nguyện trong nhân dân được mở rộng đối tượng, nâng cao tỷ lệ.
3. Về quốc phòng an ninh
Vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng trong công tác quốc phòng an ninh được nâng cao; thực hiện có hiệu quả chiến lược an ninh quốc gia và chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Ban chỉ huy quân sự xã nắm chắc diễn biến tình hình cơ sở, phối hợp chặt chẽ với Ban chỉ huy quân sự huyện duy trì lực lượng sẵn sàng chiến đấu, tham gia diễn tập phòng thủ, huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh. Hằng năm hoàn thành chỉ tiêu giao quân tuyển chọn gọi thanh niên nhập ngũ đảm bảo số lượng, chất lượng; thực hiện nghiêm túc chính sách hậu phương quân đội; tạo điều kiện về vốn, việc làm giúp con em hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương sớm ổn định cuộc sống, tích cực đóng góp vào sự phát triển quê hương.
Công tác an ninh trật tự, Đảng uỷ triển khai thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TU về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới và Đề án 375 của UBND tỉnh về Củng cố tổ chức Ban chỉ đạo an ninh trật tự, các mô hình tự quản về an ninh trật tự từ cơ sở, xây dựng khu dân cư an toàn về an sinh trật tự Qua đó, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh. Lực lượng công an xã tích cực triển khai các biện pháp phòng ngừa, tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm, chống ma tuý bảo đảm an ninh trật tự an toàn giao thông, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, ý thức cộng đồng tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Vì vậy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội các thôn, xóm trên địa bàn xã luôn đảm bảo an toàn.
Thanh tra nhân dân và hoạt động tư pháp thường xuyên được củng cố, thực hiện đúng các quy định đề ra. Duy trì thường xuyên việc tiếp dân, tiếp nhận giải quyết đơn thư theo thẩm quyền đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
4. Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Thực hiện theo quan điểm Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Ban chấp hành Đảng bộ xã thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng để Đảng bộ vươn lên ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trên lĩnh vực công tác chính trị tư tưởng: Ban chấp hành Đảng bộ xã chú trọng việc nâng cao chất lượng hiệu quả việc tổ chức học tập, nghiên cứu các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính phủ, pháp luật của Nhà nước. Tập trung tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất hàng hoá; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở các khu dân cư. Nhất là đổi mới việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động sát đúng, phù hợp với tình hình địa phương. Thông qua đó tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, do đó tạo được sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Tăng cường công tác tổ chức, cán bộ, tập trung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Đổi mới quy trình đánh giá xếp loại chi bộ, đảng viên; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp uỷ, chi bộ. Số chi bộ đạt trong sạch hằng năm đều tăng, bình quân mỗi năm có từ 80% số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh; đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt từ 15-16%; đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt từ 80-85% và số đảng viên hoàn thành nhiệm vụ còn 5-10%. Công tác cán bộ từng bước được quan tâm đổi mới. Coi trọng công tác quy hoạch cán bộ, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng quy trình. Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ, đảng viên. Trong 5 năm, xã đã cử 18 lượt cán bộ đi học lý luận, nghiệp vụ chuyên môn và đại học; 90% cán bộ, công chức trong quy hoạch đã đạt chuẩn theo yêu cầu.
Công tác đảng viên có sự chuyển biến tích cực, trong 5 năm 9/9 chi bộ đều kết nạp được đảng viên mới, toàn đảng bộ đã kết nạp được 32 đảng viên mới (vượt kế hoạch đề ra). Đồng thời Đảng uỷ đã chỉ đạo hoàn thành thủ tục xét công nhận cho 18 đồng chí cán bộ hoạt động cách mạng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thực hiện Chỉ thị 29-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng uỷ đã tổ chức đổi thẻ cho 100% đảng viên trong xã đảm bảo đúng quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ được thực hiện nghiêm túc theo chương trình toàn khoá và hằng năm. Trong 5 năm, Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã kiểm tra, giám sát 45 lượt tại các chi bộ, kiểm tra 2 đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Qua kiểm tra, Đảng uỷ đã quyết định thi hành kỷ luật 6 đảng viên. Công tác kiểm tra đã góp phần nâng cao năng lực, sức chiến đấu của các chi bộ và từng đảng viên.
Hoạt động của chính quyền và các tổ chức chính trị, xã hội:
Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2011-2016 được bầu ngày 22/5/2011 gồm 26 đại biểu. Tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân xã đã bầu ông Đỗ Huy Chân làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó chủ tịch HĐND là Trịnh Ngọc Liên Hội đồng đã bầu ông Nguyễn văn Sơn làm Chủ tịch UBND và các Phó chủ tịch là Ông Mai Văn Thương.
Trong nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân xã đã phát huy được vai trò của cơ quan quyền lực ở địa phương, đổi mới nội dung kỳ họp theo hướng dân chủ, trí tuệ trong thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng phù hợp với tình hình thực tiễn của xã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cử tri. Đồng thời tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri và tổng hợp phản ánh tại các kỳ họp HĐND xã.
Uỷ ban nhân dân: Hiệu lực điều hành của Uỷ ban nhân dân xã từng bước được nâng lên. Bộ máy của Uỷ ban nhân dân xã và các thôn được kiện toàn, củng cố ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động, luôn luôn bám sát chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, nghị quyết Đảng bộ và nghị quyết Hội đồng nhân dân xã để đề ra đề án, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Công tác cải cách hành chính có nhiều đổi mới, thực hiện cơ chế một cửa tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức giải quyết công việc nhanh gọn góp phần thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tăng niềm tin của mọi người dân với sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân đã chủ động tích cực triển khai sâu, rộng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động đến đông đảo đoàn viên, hội viên của tổ chức mình. Hội Liên hiệp Phụ nữ xã với phong trào Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc gắn với cuộc vận động xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch. Hội Cựu chiến binh với phong trào thi đua Cựu chiến binh gương mẫu. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với phong trào xung kích phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đồng hành với Thanh niên lập thân, lập nghiệp. Hội Nông dân với phong trào Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững và phong trào Nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới. Hội Người cao tuổi với phong trào Xây dựng gia đình ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo. Hội chữ thập đỏ với cuộc vận động Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân gắn với một địa chỉ nhận đạo Các phong trào thi đua, các cuộc vận động của các tổ chức chính trị, xã hội được triển khai xuống các thôn, đều gắn với cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo vệ trật tự nên đã mang lại kết quả thiết thực phát huy được sức mạnh và sức sáng tạo của Nhân dân góp phần tích cực trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá và đảm bảo an ninh xã hội ở địa phương.
5 năm (2010 2015), Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI và Nghị quyết đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2010-2015 trong điều kiện có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách. Mặc dù vậy, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân trong xã đã đoàn kết phấn đấu vượt qua khó khăn hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, một số mục tiêu vượt so với kế hoạch. Đảng bộ 4 năm liên tục đạt trong sạch vững mạnh, năm 2012 được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tặng Bằng khen, Ban Thường vụ Huyện uỷ tặng Giấy khen; năm 2013 được UBND tỉnh tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng nông thôn mới gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tháng 12/2014 nhân dân và lực lượng vũ trang xã Xuân Minh vinh dự được Chủ tịch nước truy tăng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống pháp. Đó là tiền đề, là động lực để Đảng bộ và nhân dân trong xã vững tin sẽ nhanh chóng hoàn thành 18/18 tiêu chí và được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá công nhận xã nông thôn mới.
III. TIẾP TỤC ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠO SỰ CHUYỂN BIẾN MẠNH MẼ VỀ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG AN NINH
1. Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015-2020
Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII; Hướng dẫn số 10-HD/TCTU ngày 14/10/2014 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về công tác nhân sự đại hội cấp cơ sở và cấp huyện, nhiệm kỳ 2015-2020, trong 2 ngày từ ngày 19 đến ngày 20 tháng 3 năm 2015, Đảng bộ xã Xuân Minh tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015-2020. Về dự Đại hội có 150 đảng viên từ 09 chi bộ. Đại hội được đón đoàn đại biểu của Huyện uỷ do đồng chí Lê Anh Xuân Bí thư Huyện uỷ và các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ, Ban chấp hành Huyện uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.
Với tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, Đại hội dành thời gian cho các đại biểu tham luận đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2010-2015 và rút ra các bài học, các ưu, khuyết điểm và nguyên nhân đạt được cũng như chưa đạt được của những năm 2010-2015. Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương, Đại hội đã thông qua phương hướng, mục tiêu và các chương trình trọng tâm trong nhiệm kỳ 2015-2020.
Về phương hướng chung, Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu củ tổ chức Đảng, đảng viên, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy nội lực, tranh thủ nhanh và có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất phục vụ đời sống, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tối đa nguồn lực con người, nâng cao chất lượng giáo dục, các hoạt động văn hoá theo hướng xã hội hoá, kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế, xã hội với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, xây dựng Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh đáp ứng với sự nghiệp đổi mới quê hương.
Đại hội đề ra những mục tiêu chủ yếu đến năm 2020 trên các lĩnh vực:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng bình quân 15,3%/năm trở lên. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 25,7% - Công nghiệp, xây dựng 28,9% - Thương mại, dịch vụ 45,4%. Bình quân thu nhập đầu người 41 triệu đồng năm. Tổng sản lượng mía nguyên liệu đạt 4.000 tấn trở lên; Tổng sản lượng lương thực ổn định 3.100 3.200 tấn. Đến năm 2020 có thêm từ 2-3 trang trại quy mô lớn. Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 8 tỷ đồng trở lên. Chuyển đổi từ 20-3- ha đất sang trồng cây ăn quả, hoa màu có hiệu quả kinh tế cao. Tổng vốn đầu tư phát triển hằng năm trên 25 tỷ đồng.
Về văn hoá, xã hội: Xây dựng Trường Tiểu học đạt chuẩn mức độ 02; khai trương xây dựng 01 cơ quan văn hoá; khai trương xã văn hoá; 6/6 làng giữ vững danh hiệu làng văn hoá cấp huyện, 03 cơ quan văn hoá cấp huyện. Giữ vững Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia (theo tiêu chí mới). Ổn định tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 0,6% năm; tỷ lệ hộ nghèo dưới 5%; 100% dân được dùng nước hợp vệ sinh, 100% hộ có công trình vệ sinh hợp vệ sinh.
Về quốc phòng an ninh: Toàn xã không có tội phạm, tệ nạn lớn. Không còn tụ điểm ma tuý. Hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân hằng năm.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Hằng năm có 70% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh; 80% tổ chức chính trị, xã hội đạt vững mạnh; Đảng bộ liên tục 5 năm đạt trong sạch vững mạnh. Trong 5 năm kết nạp được 30 đảng viên mới trở lên.
Đại hội đề ra 3 chương trình trọng tâm:
Một là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/HU ngày 4/11/2014 của Huyện uỷ Thọ Xuân về phát triển kinh tế - xã hội vùng tả ngạn sông Chu.
Hai là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và chất lượng sinh hoạt các chi bộ, đảng bộ xã.
Ba là: Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động làng văn hoá, chỉnh trang lại hệ thống đường giao thông, mương tiêu thoát nước.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 15 đồng chí và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI gồm 5 đồng chí.
Tại kỳ họp thứ nhất, Ban chấp hành Đảng bộ xã Xuân Minh đã bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Đỗ Huy Chân được bầu làm Bí thư Đảng uỷ; đồng chí Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó Bí thư và đồng chí Trịnh Ngọc Liên được bầu làm Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ.
Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2015-2020 thành công đã mang lại niềm tin tưởng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân; mở ra khả năng mới đầy hứa hẹn để biến những tiềm năng thành hiện thực.
2. Xã được công nhận xã nông thôn mới, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (2015-2020).
Vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng cấp trên vào điều kiện cụ thể của xã. Đảng uỷ đã đề ra chủ trương và các giải pháp cụ thể, phù hợp và kịp thời tổ chức, chỉ đạo thực hiện. Trong 5 năm, mặc dù có những lúc rất khó khăn nhất là sự không ổn định về giá cả thị trường và thiên tai, dịch bệnh, nhưng Đảng bộ, nòng cốt là Ban chấp hành đã phát huy được sự đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân, vì thế Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh đã vượt qua mọi khó khăn hoàn thành và một số mục tiêu và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ đã đẩy mạnh lãnh đạo, chỉ đạo, huy động sự đóng góp tích cực về sức người, sức của của các tầng lớp Nhân dân. Đầu năm 2015, xã đã hoàn thành 16/18 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Sau Đại hội, Đảng uỷ đã chỉ đạo tập trung mọi nguồn lực để hoàn thành 2 mục tiêu còn lại và tiếp tục duy trì, nâng cao các tiêu chí đã hoàn thành. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng uỷ, Uỷ nhân dân xã, Nhân dân đã tích cực tham gia đóng góp: hiến đất, hiến công sức đến tháng 6 năm 2015, toàn xã Nhân dân đã đóng góp xây dựng được 02 ngôi đình làng, ngõ xóm. Bà con nhân dân hăng hái tham gia các phong trào, các cuộc vận động của địa phương. Tháng 8 năm 2015, xã Xuân Minh được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đời sống của mọi người dân trong xã và bộ mặt nông thôn được nâng lên tầm cao mới.
Để đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, Đảng uỷ đã triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ, giải pháp, chú trọng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2015-2020. Từ đó tạo động lực cho nhiều ngành kinh tế phát triển, tăng giá trị sản xuất kinh doanh dịch vụ trên địa bàn. Kết quả, trong 5 năm, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản bình quân hằng năm đạt 15,3% (tăng 4,3% so với mục tiêu Đại hội); tổng sản lượng lương thực đạt 3.200 tấn; cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hương tích cực, đã chuyển thêm được 12ha diện tích cây lúa năng xuất thấp sang trồng các cây trồng, vật nuôi hiệu quả cao hơn. Sản lượng mía nguyên liệu tăng từ 4.000 tấn (năm 2014) lên 7.000 tấn (năm 2020); đồng thời chuyển diện tích vụ đông trên đất 2 lúa từ thuần tuý trồng cây hàng hoá như ngô thương phẩm sang ngô ngọt, bí, ớt, cho hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, xã chỉ đạo hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp cung ứng giống, phân bón thuốc trừ sâu, làm mạ khay, máng cấy, phục vụ bà con đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Thời gian này, mặc dù dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp nhưng chăn nuôi trên địa bàn xã vẫn được duy trì, phát triển. Tổng đàn lợn hằng năm đạt 6.000 con; đàn gia cầm 134.688 con, xã đã quy hoạch vùng đất ven sông Cầu Chày với diện tích 36ha, tạo điều kiện cho các hộ xây dựng trang trại tổng hợp. Đến năm 2020, xã đã có 7 trang trại tổng hợp, 02 trang trại quy mô lớn. Việc chăn nuôi nhỏ lẻ trong các khu dân cư từng bước được quy hoạch theo hướng chăn nuôi tập trung ở các gia trại và trang trại, đồng thời mở rộng nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề và đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục phát triển. Đến năm 2020, số hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề có hướng phát triển tốt, đã thu hút và tạo việc làm thường xuyên cho hơn 300 lao động tại chỗ. Nhiều tổ thợ, hộ gia đình tập trung mở rộng các loại hình sản xuất kinh doanh, đa dạng các sản phẩm góp phần tăng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp đưa nền kinh tế của xã phát triển mạnh hơn so với giai đoạn 2011-2015 và so với Nghị quyết Đại hội.
Để thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế, hạ tầng cơ sở nông nghiệp, nông thôn, xã đã phát động phong trào quần chúng tự nguyện tu bổ, mở rộng, làm mới các công trình phúc lợi về văn hoá, giao thông, thuỷ lợi với tổng số vốn đầu tư trên 62,3 tỷ đồng. Toàn xã đã bê tông hoá 100% đường giao thông liên thôn, liên xóm và đường kênh mương nội đồng. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, trùng tu, tôn tạo, cắm bia, biển cụm di tích cách mạng gồm 13 điểm đã được xã và bà con nhân dân tích cực triển khai, từng bước đưa vào hoạt động đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của Nhân dân.
Dịch vụ - thương mại phát triển đa dạng, phong phú nhiều loại hình như vận tải, chế biến lâm sản. Xã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp, các hộ gia đình đầu tư phát triển dịch vụ. Hoạt động dịch vụ thương mại tăng nhanh chiếm tỷ trọng ngày càng cao, từ 38,1% (năm 2014) lên 51,4% (năm 2019), đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sản xuất và đời sống Nhân dân.
Hoạt động tài chính tín dụng: Tổng thu ngân sách 5 năm (2016-2020) đạt 51,4 tỷ đồng (tăng 185% so với nhiệm kỳ 2010-2015). Các nguồn thu ở địa phương được khai thác đạt kết quả cao. Công tác thu, chi ngân sách đảm bảo đúng quy định của pháp luật và kế hoạch đề ra. Hoạt động tín dụng được quan tâm chỉ đạo và phối hợp với các ngân hàng thực hiện đảm bảo hiệu quả cao. Đến năm 2020, tổng dư nợ ngân hàng là 38,2 tỷ đồng. Các nguồn vốn được Nhân dân vay sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao.
Công tác quản lý việc sử dụng đất theo quy hoạch, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, lập thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã đi vào nền nếp, đúng quy định. Đến năm 2020, xã đã chuyển 1,37ha sang quy hoạch phát triển dân cư; 12ha chuyển từ diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng cây công nghiệp ngắn ngày đạt hiệu quả cao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình đạt 96,8% tổng số hộ dân.
Công tác vệ sinh môi trường được đẩy mạnh. Đảng uỷ đã đề ra chủ trương và giao cho Uỷ ban nhân dân xã xây dựng và triển khai đề án thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải trên địa bàn xã giai đoạn 2017-2020 định hướng đến năm 2025. Toàn xã Nhân dân rất tích cực hưởng ứng. Đến năm 2020, 100% hộ nông dân có công trình nước hợp vệ sinh, 85% hộ có nhà vệ sinh tự hoại, các gia đình chăn nuôi có hầm Bioga góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường.
Lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao. Công tác thông tin, tuyên truyền, trọng tâm là tuyên truyền việc triển khai và tổ chức thực hiện các Chỉ thị, nghị quyết của Đảng cấp trên; nhiệm vụ của địa phương xã đã đầu tư nâng cấp, sửa chữa hệ thống truyền thanh tổng kinh phí hết 55 triệu đồng. Đến năm 2020, toàn xã đã có 99% số hộ có ti vi, điện thoại di động tăng 8 lần so với giai đoạn 2010-2015; số người dân sử dụng Internet tăng 6 lần (so với năm 2015). Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng duy trì thường xuyên như: bóng chuyền, kéo co, cầu lông, và giao lưu văn nghệ mừng Đảng, mừng xuân, kỷ niệm những ngày lễ lớn Toàn xã 5/5 thôn quy hoạch sân chơi thể thao ở thôn, có 20% dân số thường xuyên tập thể dục, thể thao. Hằng năm có từ 82-86% hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá, 80-95% hộ gia đình đạt gia đình ông bà cha mẹ mẫu mực con cháu hiếu thảo, 5/5 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá các cấp và đã khai trương xây dựng 01 cơ quan văn hoá. Công tác bảo tồn, sửa chữa, nâng cấp các di tích lịch sử, di tích cách mạng, di tích lịch sử - văn hoá tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, Nhân dân trong xã tích cực ủng hộ góp phần xây dựng xã ngày càng phát huy giá trị lịch sử truyền thống của quê hương.
Giáo dục và đào tạo được chăm lo phát triển toàn diện. Cơ sở vật chất ở các trường học được đầu tư và khai thác hiệu quả cao. Trong 5 năm xã đã đầu tư cho giáo dục gần 5 tỷ đồng. Đồng thời dưới sự chỉ đạo của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, các trường đã đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt, học tốt vì vậy chất lượng dạy và học ở cả 3 trường đều được nâng lên rõ rệt. 100% trẻ trong độ tuổi được phổ cập giáo dục ở các cấp học. Hằng năm tỷ lệ học sinh được lên lớp và đậu tốt nghiệp đạt 98% trở lên và có từ 45-50 học sinh đậu các trường đại học, cao đẳng. Đến năm 2020, cả 3 trường: Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở đều đạt chuẩn quốc gia.
Công tác khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập phát triển mạnh hoạt động của Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo chức và Trung tâ học tập cộng đồng ngày càng có hiệu quả thiết thực. Trung tâm học tập cộng đồng trung bình mỗi năm mở được từ 12-15 lớp bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật, kiến thức pháp luật cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân. Toàn xã 5/5 thôn và 100% dòng họ xây dựng được quỹ khuyến học. Tổng quỹ khuyến học của xã đạt hàng trăm triệu đồng.
Công tác y tế, dân số - gia đình và trẻ em tiếp tục được các Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quan tâm. Trạm y tế xã phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tổ chức ngày hội hạnh phúc, chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho chị em phụ nữ trong độ tuổi ; thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân; duy trì, thực hiện tốt các mặt y tế dự phòng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, không để dịch bệnh vùng phát. Các chương trình quốc gia về y tế thực hiện có hiệu quả. Đến năm 2020, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt 87%.
Các chế độ chính sách xã hội đối với người có công, chính sách an sinh xã hội thực hiện tốt. Hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện được Nhân dân tích cực tham gia. Xã phối hợp với các công ty, doanh nghiệp trong tuyển dụng lao động. Trong năm 2019, toàn xã giải quyết việc làm cho hơn 100 lao động nông nghiệp, 154 người đi xuất khẩu lao động. Đời sống Nhân dân cải thiện rõ rệt. Năm 2015, số hộ nghèo trong xã có 59 hộ, đầu năm 2020 giảm còn 16 hộ.
Quốc phòng an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội bảo đảm; công tác thanh tra, tư pháp có chuyển biến tích cực. Đảng uỷ đã triển khai quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, của huyện Thọ Xuân về nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Hằng năm xã đội đã xây dựng kế hoạch tham mưu với Đảng uỷ nội dung, chương trình huấn luyện, chương trình diễn tập phòng thủ, v.v... Trong 5 năm, Ban chỉ huy xã đội đã hoàn thành công tác huấn luyện quân sự, công tác tuyển quân, nhất là đã làm tốt công tác giáo dục chính trị cho các đối tượng theo quy định. Công tác hậu phương quân đội được thực hiện đầy đủ, kịp thời và chú trọng xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đầu, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân phòng cháy, chữa cháy.
Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác an ninh trật tự trên địa bàn. Ban Công an xã đã đẩy mạnh tuyên truyền các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng; hoạt động của Ban Công an xã và các tổ an ninh ở các thôn đem lại nhiều hiệu quả thiết thực. Vì vậy không để xảy ra các vụ việc phức tạp, giữ vững sự bình yên trong các khu dân cư.
Về lĩnh vực tư pháp, các hồ sơ tiếp nhận căn bản được giải quyết kịp thời, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Trong nhiệm kỳ, xã đã tổ chức được các lớp tập huấn về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến, tạo thuận lợi cho các tập thể và Nhân dân đến giải quyết các thủ tục hành chính nhanh, gọn.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân: Hội đồng nhân dân xã khoá XIX, nhiệm kỳ 2016-2021, được bầu vào ngày 22/5/2016, cử tri đã bầu đủ 26 vị đại biểu đại diện cho các tổ chức, các tầng lớp Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong nhiệm kỳ, Thường trực HĐND, các đại biểu HĐND đã bám sát phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu Đại hộ Đảng bộ, đề ra nghị quyết kịp thời, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương nên có tính khả thi cao. Đổi mới, nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri bằng nhiều hình thức, đại biểu Hội đồng nhân dân sâu sát với địa bàn dân cư, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cư tri kịp thời phản ánh với cấp trên giải quyết. Trong 5 năm, Hội đồng nhân dân xã đã tiến hành giám sát và phối hợp giám sát trên các lĩnh vực là 21 cuộc, tổ chức thành công 11 kỳ họp. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc được duy trì và phối hợp tốt, hỗ trợ lẫn nhau chung sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Uỷ ban nhân dân xã trong những năm 2015-2020, triển khai nghiêm túc Nghị quyết của Đảng uỷ và Hội đồng nhân dân. Quá trình chỉ đạo, điều hành, Thường trực Uỷ ban nhân dân đã có nhiều giải pháp tích cực để tăng cường công tác quản lý trên các lĩnh vực như: Chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông nghiệp, tích tục đất đai sản xuất theo quy mô lớn và công nghệ cao, phát triển các mô hình dịch vụ - thương mại; đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở và công tác tiếp dân. Mối quan hệ giữa cán bộ xã với các thôn được tăng cường, tranh thủ được sự lãnh đạo của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các ban, ngành, đoàn thể chính trị, xã hội của huyện để triển khai thực hiện có hiệu quả cao nhất các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội hoạt động tích cực, thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức sinh hoạt, thu hút ngày càng càng đông đảo đoàn viên, hội viên.
Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 30/12/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội của tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2015-2020 và chương trình hành động số 17-CTr/HU của Ban Thường vụ Huyện uỷ về thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU, Mặt trận Tổ quốc xã đã tăng cường các hoạt động tiếp xúc, đối thoại, tham dự sinh hoạt thường kỳ với các chi hội, chi đoàn và thường xuyên đi về các thôn nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của bà con Nhân dân. Xây dựng và phát triển thực hiện có hiệu quả Đề án Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân trong công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, không sử dụng chất cấm trong sản xuất nông nghiệp và chấp hành luật về an toàn giao thông giai đoạn 2017-2020; tổ chức triển khai thực hiện Quyết định 217, 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị về giám sát, phản biện xã hội tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Năm 2018, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2018-2023. Đại hội đã hiệp thương bầu Trịnh Minh Nguyên làm Chủ tịch. Trong những năm 2018-2020, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã đã triển khai xây dựng các mô hình về an toàn thực phẩm, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lụt bão, ủng hộ quỹ phòng chống Covid 19 Mặt trận Tổ quốc xã đã phát động các tổ chức thành viên, kêu gọi đoàn viên, hội viên hưởng ứng cuộc vận động cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau, ủng hộ Quỹ vì người nghèo, v.v Kết quả đã vận động được số tiền trên 130 triệu đồng để giúp đỡ người nghèo, gia đình khó khăn. Đồng thời phối hợp xây dựng được 03 nhà Đại đoàn kết với tổng kinh phí là 120 triệu đồng. Trong nhiệm kỳ, đã cùng HĐND tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Riêng HĐND xã đã bầu đủ số lượng đại biểu quy định. Bên cạnh đó, Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc xã tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri đảm bảo thành phần, số lượng cử tri tham gia, nhất là các ý kiến, kiến nghị của cử tri đã được chuyển kịp thời cấp có thẩm quyền giải quyết. Năm 2019, phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã đã tổ chức thành công cuộc bầu cử Trưởng thôn nhiệm kỳ 2010 2021. Hằng năm Mặt trận Tổ quốc xã đều được xếp loại xuất sắc, liên tục được Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã khen thưởng.
Hoạt động của phụ nữ và Hội Liên hiệp Phụ nữ: Tháng 4 năm 2016, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã tổ chức Đại hội, nhiệm kỳ 2016-2021. Với tinh thần: Đoàn kết Sáng tạo Bình đẳng Phát triển, Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu trong nhiệm kỳ 2016-2021, đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ tập trung là 2 phong trào thi đua và 2 cuộc vận động. Đại hội bầu chị Lê Thị Phương làm Chủ tịch Hội.
Triển khai Nghị quyết Đại hội, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đã phát động phong trào thi đua tích cực hưởng ứng các cuộc vận động theo từng đợt hoặc từng giai đoạn như: Phong trào thi đua chào mừng đại hội Đảng các cấp; Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 90 năm thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Đẩy mạnh phong trào thi đua Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc và phong trào Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch. Xây dựng mô hình Chi hội Phụ nữ tự quản về vệ sinh môi trường; mô hình làng quê an toàn cho phụ nữ và trẻ em; mô hình đường hoa tự quản, v.v Hội đã vận động Hội viên tham gia mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện với mô hình tổ, nhóm phụ nữ tiết kiệm mua bảo hiểm y tế. Đến năm 2020, số hội viên và phụ nữ xã tự nguyện mua bảo hiểm y tế đạt 87%. Số hội viên tham gia sinh hoạt hội ngày càng tăng, đến năm 2020 đạt tỷ lệ 80,6% (một trong những xã có tỷ lệ hội viên tham gia sinh hoạt cao của huyện). Hằng năm Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đều đạt xuất sắc được các cấp khen thưởng.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: Thời gian này hoạt động của Đoàn Thanh niên rất khó khăn. Song Ban chấp hành Đoàn xã đã không quản ngại, nỗ lực, chủ động trong tham mưu với Đảng uỷ đề ra nhiệm vụ cho Đoàn thanh niên và phong trào thanh thiếu nhi trong xã. Vì vậy, Đoàn Thanh niên đã tạo được nhiều đột phá trên mọi lĩnh vực được Đảng uỷ, chính quyền xã và Đoàn cấp trên đánh giá cao; Tỷ lệ thuh út đoàn viên thanh niên trong xã đạt trên 65%.
Năm 2017, Đoàn Thanh niên xã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2017-2022. Đại hội đã bầu đồng chí Trịnh Văn Quảng làm Bí thư xã Đoàn. Sau Đại hội, Ban chấp hành Đoàn xã đã chú trọng đổi mới nội dung sinh hoạt, quan tâm chỉ đạo cho thanh, thiếu niên, nhi đồng nhiều sân chơi bổ ích có giá trị giáo dục cao. Bên cạnh đó, hằng năm Đoàn xã đã làm tốt công tác tư vấn, hỗ trợ thanh niên về hướng nghiệp, giới thiệu việc làm và phát triển kinh tế, thành lập doanh nghiệp, v.v Phối hợp với các trường xây dựng mô hình Cổng trường an toàn giao thông xanh sạch đẹp tại các trường học trong xã.
Hội Cựu chiến binh: Tiếp tục duy trì và làm tốt công tác vận động Cựu chiến binh gìn giữ phát huy phẩm chất Anh bộ đội cụ Hồ, gương mẫu thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hăng hái thi đua phát triển kinh tế, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Thời gian này Hội đã tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ 2017-2022. Đồng chí Lê Đức Cần được bầu làm Chủ tịch.
Sau Đại hội, Hội Cựu chiến binh xã đẩy mạnh phong trào xây dựng mô hình Cựu chiến binh tham gia bảo vệ môi trường ngoài đồng ruộng; triển khai thực hiện có hiệu quả các mô hình 3/1, Đề án mô hình Tổ 3 chủ động. Đặc biệt là xã đã thành lập được Câu lạc bộ hội viên Cựu Chiến binh làm kinh tế giỏi với 100% hộ gia đình có hội viên Cựu chiến binh tham gia. Bên cạnh đó, các chi hội Cựu chiến binh ở các thôn đã nhận tham gia các đoạn đường Cựu chiến binh tự quản góp phần làm sạch đường làng, ngõ xóm giữ gìn vệ sinh môi trường ở các khu dân cư. Trong những năm 2015-2020, Hội Cựu chiến binh xã luôn giữ vững danh hiệu trong sạch, vững mạnh xuất sắc.
Hội Nông dân xã luôn luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương và cán bộ Hội tăng cường đi về cơ sở nắm bắt tình hình tư tưởng cũng như tâm tư nguyện vọng của bà con nông dân, quan tâm hỗ trợ hội viên về vốn, vật tư, mở các lớp chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật, dạy nghề, Hằng năm, phối hợp với Trung tâm học tập cộng đồng mở từ 3 đến 5 lớp tuyên truyền, phổ biến nâng cao kiến thức pháp luật, tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, cách phòng chống dịch bệnh và sử dụng các chế phẩm sinh học trong trồng trọt, chăn nuôi. Ngoài ra, Hội đã chủ động tuyên truyền vận động hội viên xây dựng quỹ Hội Nông dân và quản lý tốt các nguồn vốn vay phát triển từ quỹ hỗ trợ nông dân của Tỉnh và Trung ương tạo điều kiện cho các hộ nông dân và hội viên Hội Nông dân phát triển kinh tế để giảm nghèo và vì vậy hội viên tham gia ngày càng đông. Đến năm 2020, tỷ lệ hội viên tham gia sinh hoạt hội đạt 80% và Hội liên tục đạt vững mạnh xuất sắc.
Hoạt động của các tổ chức Hội quần chúng: Các tổ chức Hội quần chúng gồm có: Hội Người cao tuổi; Hội Khuyến học; Hội Cựu giáo chức; Hội Cựu Thanh niên xung phong; Hội Chữ thập đỏ; Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em; Hội Nạn nhân chất độc da cam Đioxin, Các Hội luôn chủ động nắm bắt tình hình hội viên, bám sát nhiệm vụ chính trị tích cực tham gia thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương góp phần quan trọng trong việc hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, lòng tin của Nhân dân với Đảng ngày càng được nâng cao. Hằng năm, các tổ chức Hội quần chúng đều đạt danh hiệu vững mạnh.
Công tác xây dựng Đảng:
Trong nhiệm kỳ 2015-2020, Ban chấp hành Đảng bộ đã đẩy mạnh xây dựng Đảng trên cả ba mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ.
Công tác chính trị, tư tưởng: Ngay từ đầu nhiệm kỳ Ban chấp hành Đảng bộ đã tổ chức triển khai trong toàn Đảng bộ học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Đảng bộ huyện lần thứ XXVI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII. Đồng thời Đảng uỷ đã lãnh đạo triển khai học tập và yêu cầu cán bộ, đảng viên viết thu hoạch nghiêm túc việc thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khoá XII) về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Do có sự chỉ đạo đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo nên tỷ lệ đảng viên, cán bộ công chức tham gia học tập Nghị quyết đạt 96%, cao hơn so với các lần triển khai trước. Thôngm qua đó góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, tạo niềm tin của Nhân dân với Đảng.
Công tác tổ chức, cán bộ: Ban chấp hành Đảng bộ xã đã tập trung xây dựng, củng cố các chi bộ, Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 12/3/2012 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu Thanh Hoá trở thành tỉnh tiên tiến vào năm 2020. Đảng uỷ đã chỉ đạo tổ chức thực hiện việc phân công cán bộ trong cấp uỷ tham gia ứng cử để bầu các chức danh chủ chốt của HĐND và UBND nhiệm kỳ 2016-2021; năm 2018, căn cứ theo Nghị quyết số 106/NQ-HĐND ngày 11/7/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hoá về Đổi tên, chuyển thôn thành khu phố; sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố mới tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã đã tập trung lãnh đạo sáp nhập thôn Thiên Lộc và thôn Quang Hoa thành thôn Hoa Lộc, đồng thời Đảng uỷ xã Quyết định thành lập chi bộ thôn Hoa Lộc đồng thời đổi tên các chi bộ từ số thứ tự sang tên thôn trên phạm vi toàn xã. Đến tháng 10 năm 2018 xã từ 9 chi bộ còn 8 chi bộ (gồm 5 chi bộ thôn và 3 chi bộ nhà trường). Sau sáp nhập Đảng uỷ kiện toàn 8 chi uỷ, chi bộ theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội của xã được quan tâm. Xã đã cử hàng chục cán bộ, đảng viên đi học các lớp của tỉnh, của huyện mở. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức được nâng lên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức xã cơ bản được chuẩn hoá theo quy định. 100% có trình độ văn hoá Trung học phổ thông; 70% có trình độ đại học; 100% có trình độ lý luận chính trị trung cấp. Chất lượng nguồn quy hoạch cơ bản đáp ứng được yêu cầu sử dụng trong nhiệm kỳ.
Từ năm 2015 đến năm 2020, Đảng uỷ đã kết nạp được 36 đảng viên mới (vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra), 100% số chi bộ đều kết nạp được Đảng viên mới và thực hiện nghiêm túc việc bình xét phân loại tổ chức Đảng và đảng viên. Qua bình xét hằng năm có 15-20% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ còn 5-10% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ. Đảng bộ liên tục đạt Đảng bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Hoạt động kiểm tra, giám sát: Đảng uỷ chỉ đạo Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ triển khai nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra, giám sát 45 lượt ở các chi bộ; xử lý kỷ luật 8 đảng viên. Chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng viên đảm bảo nguyên tắc, kịp thời, có tính giáo dục cao tạo được sự đồng thuận trong hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân.
Về công tác Dân vận: Đảng uỷ chỉ đạo kiện toàn tổ dân vận ở khu dân cư, vận động đảng viên và Nhân dân tích cực tham gia các phong trào yêu nước và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới. Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã triển khai 4 cuộc tiếp xúc, đối thoại của Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội và Nhân dân trên địa bàn xã. Đồng thời khối Dân vận phối hợp với Công an xã tổ chức diễn đàn Công an lắng nghe ý kiến Nhân dân, tổ chức tốt công tác tiếp dân, giải quyết kịp thời các ý kiến, kiến nghị của Nhân dân. Vì vậy, được Nhân dân tin tưởng và tích cực tham gia các phong trào, các cuộc vận động do địa phương phát động như phong trào làm đường giao thông; phong trào xây dựng nhà văn hoá, làm kênh mương nội đồng và hàng chục các công trình phúc lợi khác với tổng số vốn đầu tư tới hàng tỷ đồng.
Trong nhiệm kỳ 2015-2020, tình hình kinh tế của tỉnh và huyện Thọ Xuân có nhiều khởi sắc đã tác động tích cực đến sự phát triển về kinh tế - xã hội của địa phương. Được sự quan tâm trực tiếp của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, sự phối hợp của các phòng, ban, đoàn thể của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh đã tranh thủ thời cơ, đoàn kết, quyết tâm vượt qua những khó khăn, thử thách giành được thắng lợi, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng hiệu lực, hiệu quả, phong trào xây dựng Nông thôn mới đã tạo khí thế thi đua rộng khắp trong toàn xã và những người con xa quê từ đó phát huy được vai trò chủ thể của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, giúp diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng nâng cao.
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng đất đai lợi thế của địa phương; phát triển ngành nghề còn lúng túng, chưa xây dựng được các mô hình, điển hình để phát triển kinh tế. Công tác thông tin tuyên truyền còn mang tính hình thức chưa đi vào trọng tâm, trọng điểm. Mặc dù vậy nhưng những kết quả đạt được vẫn là quan trọng, đó cũng chính là hành trang vững chắc, để Xuân Minh phát triển các mặt kinh tế, xã hội xây dựng xã sớm thành mục tiêu xã nông thôn mới nâng cao.
IV. TẬP TRUNG MỌI NGUỒN LỰC, TẠO BƯỚC ĐỘT PHÁ PHẤN ĐẤU XÂY DỰNG HẠ TẦNG CƠ SỞ THEO TIÊU CHÍ PHƯỜNG VÀ TRỞ THÀNH PHƯỜNG TRƯỚC NĂM 2030.
Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30 tháng 5 năm 2019 của Bộ Chính trị về Đại hội các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Ngày 25/5/2020, Đại hội Đảng bộ xã Xuân Minh lần thứ XXVIII khai mạc trọng thể với 148 đại biểu chính thức thay mặt cho 324 đảng viên của Đảng bộ về dự Đại hội.
Trong 2 ngày, từ ngày 25 đến ngày 26 tháng 5 năm 2020, Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015-2020 và xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2020-2025. Với phương châm hành động Đoàn kết Dân chủ - Kỷ cương Đổi mới Phát triển, Đại hội đề ra phương hướng tổng quát của nhiệm kỳ 2020-2025 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy nội lực, tranh thủ nhanh và có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất, phục vụ đời sống, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế, xã hội, phát huy tối đá nguồn lực con người, nâng cao chất lượng giáo dục, các hoạt động văn hoá theo hướng xã hội hoá, kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế - xã hội với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, xây dựng Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, đáp ứng với sự nghiệp đổi mới quê hương.
Đại hội quyết nghị một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2025. Về kinh tế (13 chỉ tiêu):
- Thu nhập bình quân đầu người 75.000.000đ trở lên/ năm.
- Diện tích đất được tích tụ tập trung để sản xuất nông nghiệp đạt 80ha.
- Tổng sản lượng lương thực 3.200 tấn.
- Diện tích, năng xuất, sản lượng các cây trồng chủ yếu:
+ Lúa: 428ha; năng xuất 6,55 tấn/ha; sản lượng 2.803 tấn trở lên.
+ Ngô: 70ha; năng xuất 5,5 tấn/ha; sản lượng 385 tấn trở lên.
+ Lạc: 5 ha; năng xuất 0,14 tấn/ha; sản lượng 0,4 tấn trở lên.
+ Mía: 50 ha; năng xuất 14 tấn/ha; sản lượng 7.000 tấn trở lên.
- Tổng đàn gia súc, gia cầm: 151.528 con trở lên.
- Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản: 35.200 tấn.
- Số lượng doanh nghiệp mới: 16 doanh nghiệp trở lên.
- Thu ngân sách hằng năm tăng: 15% trở lên.
- Tỷ lệ thôn đạt nông thôn mới nâng cao: 100%; có 2 thôn đạt kiểu mẫu.
- Tỷ lệ đường giao thông được cứng hoá: 100%
- Tỷ lệ kênh mương được cứng hoá: 100%
- Xã đạt nông thôn mới nâng cao vào năm 2020.
- Phấn đấu hoàn thành cơ sở hạ tầng theo tiêu chí phường.
Về văn hoá, xã hội (08 chỉ tiêu):
- Tốc độ tăng dân số bình quân 0,5%/ năm.
- Số hộ nghèo giảm bình quân 2%/ năm.
- Tỷ lệ hộ cận nghèo dưới 5%/năm.
- Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế: 98%.
- Tỷ lệ hộ gia đình có nhà ở đạt tiêu chuẩn: 100%
- Tỷ lệ trẻ em dưới 6 tuổi được tiêm phòng: 100%.
- Tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hoá đạt 96%.
- Tỷ lệ thông kiểu mẫu: 40%.
Về môi trường (02 chỉ tiêu):
- Tỷ lệ dân số được dùng nước sạch đạt 80%.
- Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, xử lý đạt 98%.
Về an ninh trật tự (01 chỉ tiêu):
- Tỷ lệ khu dân cư đạt tiêu chuẩn an toàn về ANTT đạt 100%.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị (02 chỉ tiêu):
- Trong nhiệm kỳ kết nạp mới được 30 đảng viên.
- Tỷ lệ chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm đạt 80% trở lên. Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể chính trị, xã hội đạt vững mạnh.
Đại hội đề ra 4 chương trình trọng tâm:
Một là: Chương trình tích tụ, tập trung đất đai phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hoá, quy mô lớn, ứng dụng nghệ cao. Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Hai là: Chương trình xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng theo tiêu chí phường.
Ba là: Chương trình nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Bốn là: Chương trình tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động làng văn hoá, chỉnh trang lại hệ thống đường giao thông, mương tiêu nước.
Đại hội chỉ rõ những giải pháp chủ yếu về kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị. Đại hội đã bầu được 13 đồng chí đại diện cho ý chí, nguyện vọng của đảng viên trong Đảng bộ vào Ban chấp hành Đảng bộ khoá XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025. Trong phiên họp thứ nhất, Ban chấp hành bầu đồng chí Trịnh Bá Lập làm Bí thư Đảng uỷ và hai đồng chí Phó Bí thư là Đỗ Huy Hùng và Võ Văn Quang.
Thực hiện nhiệm vụ trong những năm 2020-2023, xã Xuân Minh có những thuận lợi cơ bản. Đó là xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ bản. Đặc biệt, vốn là xã có truyền thống cách mạng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân đoàn kêt đã vượt qua nhiều khó khăn, cán bộ, đảng viên và Nhân dân đoàn kết đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để xây dựng quê hương. Đây là yếu tố nội lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của xã. Tuy nhiên, đây cũng là thời gian xã Xuân Minh cũng như cả nước gặp đại dịch Covid 19 làm cho tình hình kinh tế, xã hội và đời sống các tầng lớp Nhân dân gặp vô vàn khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Đảng bộ xã.
Được sự lãnh đạo sát sao, trực tiếp của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện Thọ Xuân, Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã đã chỉ đạo quyết liệt, đồng thời Ban Thường vụ Đảng uỷ, Ban chấp hành Đảng bộ đã quyết tâm đổi mới phương thức quản lý, điều hành của chính quyền, tranh thủ và thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, nên trong thời gian nửa nhiệm kỳ, các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXVIII đề ra đã cơ bản đạt được.
Trên lĩnh vực kinh tế: Đảng uỷ tiếp tục chỉ đạo tập trung thực hiện tốt Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 20/4/2015 của Ban chấp hành Tỉnh uỷ về tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, Uỷ ban nhân dân xã đã có nhiều chủ trương khuyến khích hỗ trợ nông dân các giống lúa, ngô lai, lạc, mía có năng xuất cao và tiếp tục vận động bà con nông dân tích tụ ruộng đất, đổi mới quan hệ sản xuất, tổ chức phát triển xây dựng trang trại, gia trại, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi.
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng hết diện tích và tăng diện tích cây trồng có giá trị cao, đến tháng 5 năm 2023, toàn xã đã chuyển đổi 90% diện tích lúa năng xuất kém hiệu quả sang trồng lúa giống chất lượng cao; 100% diện tích ngô đều sử dụng giống ngô lai; cây đậu tương, cây ớt sản xuất 3 vụ chính trong năm (vụ xuân, vụ hè, vụ đông) với diện tích 155-160ha cho hiệu quả kinh tế cao.
Đối với ngành trồng trọt, thời gian này xã đã đầu tư cơ giới hoá rộng rãi. Xã đã mua được 04 máy gặt đập liên hợp; 10 máy làm đất. Vì vậy đã cơ giới hoá được trên 90% diện tích khâu làm đất, diện tích cấy bằng máy cũng như thu hoạch bằng máy đã được bà con sử dụng ngày càng nhiều. Nhờ đó đã giúp bà con nông dân tiết kiệm giống, thời gian lao động, chủ động về thời vụ, giảm giá thành sản xuất. Bên cạnh đó, hợp tác xã cung ứng giống, phân bón, bao tiêu sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp, phối hợp với Công ty giống Thái Bình quy hoạch vùng sản xuất và bao tiêu lúa giống cho năng xuất chất lượng cao.
Đối với chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm, mặc dù thời gian này đại dịch Covid-19 diễn ra phức tạp ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống mọi người dân, nhưng chăn nuôi trên địa bàn xã vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. Xã đã quy hoạch vùng đất ven sông Cầu Chày phát triển chăn nuôi trang trại tổng hợp. Đến năm 2023, toàn xã có 07 trang trại tổng hợp; 04 trang trại quy mô lớn. Việc chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư từng bước được quy hoạch.
Đối với sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ: Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã đã lãnh đạo, chỉ đạo giải phóng hành lang an toàn giao thông, thông thoáng để Nhân dân hai bên quốc lộ 47B, đường Lê Hoàn xây dựng các cửa hàng, cửa hiệu. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình phát triển sản xuất kinh doanh. Đến tháng 3 năm 2023 xã đã có 04 Công ty đầu tư vào và mở thêm được 03 doanh nghiệp giải quyết công ăn việc làm cho đông đảo con em trong xã và các vùng lân cận.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ, chính quyền xã và cơ bản là được sự đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân, đến giữa nhiệm kỳ 2020-2025 về kinh tế xã đã thực hiện được các chỉ tiêu chủ yếu.
- Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản 157.672.000 đồng (đạt 50% kế hoạch).
- Sản lượng lương thực bình quân hằng năm đạt 6.095 tấn (đạt 45,9% kế hoạch).
- Diện tích, năng xuất một số cây trồng chủ yếu:
+ Cây lúa: Diện tích 565 ha (đạt kế hoạch), năng xuất 57 tấn/ha.
+ Cây mía: Diện tích 150 ha (đạt kế hoạch), năng xuất 12.000 tấn.
+ Cây ngô: Diện tích 137,5 ha, năng xuất 55 tạ/ha (đạt kế hoạch).
- Tổng đàn gia súc, gia cầm hằng năm đạt 161.180 con (đạt 106,3%)
- Số lượng doanh nghiệp: 07 doanh nghiệp.
- Thu ngân sách đạt 62.038.823.000 đồng.
- Thu nhập bình quân đầu người đạt 57.800.000 đồng.
- Tỷ lệ đường giao thông được cứng hoá 100%.
- Tiêu chí cơ sở hạ tầng đạt tiêu chí phường được 10/13 tiêu chí.
Về lĩnh vực văn hoá xã hội:
Đảng uỷ lãnh đạo nâng cao hiệu quả hoạt động Văn hoá Thông tin, Thể dục thể thao, chú trọng công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân và nhất là đối với công tác giáo dục, Đảng uỷ đặc biệt quan tâm và vận động mọi người dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Vì vậy từ năm 2020 đến tháng 5/2023 các hoạt động văn hoá xã hội đã chuyển biến rõ rệt:
Đối với hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao: xã đã tổ chức, chỉ đạo Ban văn hoá thông tin tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các tầng lớp Nhân dân; phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội tuyên truyền sâu rộng các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên. Thực hiện có hiệu quả công tác trang trí, khánh tiết, treo băng zôn, khẩu hiệu, viết bản tin, tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh của xã.
Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã quan tâm đầu tư sửa chữa hệ thống truyền thanh của xã, vì vậy trong thời gian đại dịch Covid-19, Nhân dân trong xã đã chủ động phòng, chống dịch không để xảy ra tràn lan. Số người dân sử dụng mạng Internet tăng 4 lần so với cùng nhiệm kỳ 2015-2020. Bên cạnh đó, Đảng uỷ xã đã lãnh đạo Nhân dân đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá gắn với thực hiện Quyết định số 15/QĐ-UBND ngày 18/8/2021 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, các thôn đều triển khai thực hiện rộng rãi. Trong 3 năm toàn xã có 3.698 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hoá và 5/5 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá.
Hoạt động thể dục, thể thao, văn hoá văn nghệ phát triển sôi nổi, rộng rãi. 100% số thôn trong xã đã có sân chơi thể thao, 46% dân số thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, bóng bàn, cầu lông và câu lạc bộ thơ Khắp các thôn trong xã phong trào văn hoá, văn nghệ diễn ra sôi nổi, nhất là vào những ngày lễ, tết, kỷ niệm, v.v các thôn tổ chức giao lưu tạo không khí vui tươi, lành mạnh trong các khu dân cư.
Đối với công tác giáo dục đào tạo: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025 và Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 12/7/2022 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện về Phát triển giáo dục và đào tạo huyện Thọ Xuân giai đoạn 2022-2025 và Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 12/7/2022 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện về phát triển giáo dục và đào tạo huyện Thọ Xuân giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2025, Đảng uỷ chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực để đầu tư xã đầu tư 15 tỷ đồng hoàn thiện cơ sở vật chất trang thiết bị trường học. Trong hơn 2 năm nhà trường vừa thực hiện nhiệm vụ phòng chống dịch Covid-19, vừa đảm bảo nhiệm vụ dạy và học, giáo viên và học sinh các trường đã cố gắng vượt qua khó khăn nâng cao chất lượng dạy và học. Hằng năm học sinh vẫn đạt tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp gần 100%; có hơn 145 em đậu vào các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Đến năm học 2022-2023, cả 3 trường đều đạt trường chuẩn quốc gia; trường Mầm non được cộng nhận lại chuẩn mức độ 2, trường Tiểu học trường THCS được công nhận chuẩn lại mức độ 1.
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Đảng uỷ lãnh đạo toàn Đảng bộ và các đoàn thể chính trị xã hội phát huy vai trò của Trung tâm học tập cộng đồng, tăng cường đẩy mạnh công tác xã hội hoá học tập; xã thành lập quỹ chắp cánh ước mơ, khuyến khích, động viên Nhân dân trong xã và con em khắp mọi miền Tổ quốc chăm lo quỹ khuyến học, khuyến tài nhằm góp phần xây dựng xã hoàn thành các tiêu chí về xây dựng xã hội học tập. Đến năm 2023, 5/5 thôn và 100% các dòng họ xây dựng được quỹ khuyến học của thôn và của dòng họ. Phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và trong cộng đồng dân cư tiếp tục đi vào chiều sâu.
Công tác y tế tiếp tục nâng cao hiệu quả khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân đặc biệt là hoàn thành nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19. Đảng uỷ lãnh đạo Trạm y tế xã đẩy mạnh công tác truyền thông dân số - kế hoạch hoá gia đình và trẻ em, duy trì các chỉ tiêu về dân số, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ở 0,25%. Các chương trình quốc gia về y tế được thực hiện có hiệu quả. Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia theo bộ tiêu chí mới.
Công tác vệ sinh môi trường ngày càng được quan tâm. Đảng uỷ ban hành Nghị quyết chuyên đề về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, trường học, khu dân cư hằng tuần, hằng tháng phải tổng dọn vệ sinh môi trường đảm bảo sáng xanh sạch đẹp.
Chính sách an sinh xã hội được thực hiện tốt. Quan tâm giải quyết kịp thời, đầy đủ các chế độ chính sách đến các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, hộ khó khăn, trẻ em mồ côi, v.v Phối hợp thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách, ốm đau, hộ bị ngập lụt, v.v Các chính sách hỗ trợ người nghèo thực hiện đầy đủ góp phần quan trọng vào công tác giảm nghèo ở địa phương.
Về quốc phòng an ninh: Ban chỉ huy quân sự xã luôn coi trọng giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự quốc phòng địa phương, nâng cao tinh thần cảnh giác không để xảy ra các điểm nóng, tình huống bất ngờ. Duy trì nghiêm túc lực lượng trực chiến, xây dựng lực lượng dân quân, lực lượng quân dự bị động viên. Công tác tuyển quân hằng năm đảm bảo hoàn thành cả về số lượng và chất lượng theo kế hoạch được giao. Phối hợp thực hiện chính sách hậu phương quân đội, chi trả chế độ theo Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho 724/812 đối tượng.
Công tác an ninh, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được ổn định, trên địa bàn xã không xảy ra các vụ trọng án. Ban chỉ đạo an ninh, trật tự và an ninh trật tự các thôn cũng như các tổ an ninh xã hội luôn luôn ổn định về số lượng. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội được kiềm chế. Đến năm 2023, 100% khu dân cư đạt tiêu chuẩn an toàn về an ninh trật tự.
Công tác thanh tra, tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo đã thực hiện đúng quy định, phối hợp với phòng, ngành Uỷ ban nhân dân huyện giải quyết đơn thư kiến nghị liên quan đến đất đai theo quy định của pháp luật, không để xảy ra các trường hợp kiện vượt cấp.
Đối với các chương trình trọng tâm: Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025, đề ra 4 chương trình trọng tâm. Sau gần 3 năm thực hiện các chương trình trọng điểm đã đạt được những kết quả:
Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, khuyến khích tích tục ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp và hàng hoá có giá trị hiệu quả kinh tế cao: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban chấp hành Đảng bộ xã đã tiếp tục triển khai Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 20 tháng 4 năm 2015 của Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, Đảng uỷ xã đã cụ thể hoá Nghị quyết của Tỉnh uỷ và ban hành Nghị quyết của Đảng bộ xã về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững; Tạo bước đột phá về tổ chức sản xuất, xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất tập trung quy mô lớn; Tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp an toàn. Đảng uỷ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân xã tổ chức vận động Nhân dân chuyển đổi, tích tụ được 30ha đất lúa có năng xuất cao; xây dựng được các trang trại, gia trại trồng cây ăn quả, vùng trà lúa giống ở các xứ đồng. Các trang trại, gia trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, cá lúa đã được hình thành, các hộ đã quy hoạch đầu tư theo công nghệ mới và theo phương châm thực phẩm sạch để đưa ra thị trường.
Chương trình phát triển ngành nghề - tiểu thủ công nghiệp dịch vụ - làng nghề gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu: Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2020-2025, xác định đây là chương trình trọng tâm. Do đó, Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển đa dạng các ngành nghề dịch vụ. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao như đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông, mương tiêu thoát nước khu dân cư; xây dựng nhà văn hoá thôn Hoa Lộc và Phong Cốc; công trình giải thảm và hệ thống điện chiếu sáng đường Lê Hoàn, đường liên thôn; xây mưới và nâng cấp, tu sửa các hạng mục công trình 3 trường trị giá hơn 60 tỷ đồng. Đến năm 2023, xã đã cơ bản hoàn thành 18/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới nâng cao và có 1 thôn đạt thôn nông thôn mới kiểu mẫu.
Chương trình nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá, xã hội gắn với bảo tồn văn hoá truyền thống, đảm bảo vệ sinh môi trường. Hoạt động văn hoá, thể dục thể thao ngày càng được quan tâm, thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia. Uỷ ban nhân dân xã chỉ đạo thực hiện tốt việc thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt một tuần 2 tuổi. Hoạt động văn hoá truyền thống phát triển mạnh. Mỗi năm có từ 93-95% hộ gia đình đạt văn hoá, 5/5 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá. Công tác trùng tu, tôn tạo các di tích cách mạng được Nhân dân tham gia sôi nổi và đã hoàn thành trùng tu tôn tạo cụm di tích cách mạng.
Chương trình đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; xây dựng hệ thống chính trị thật sự vững mạnh, tăng cường công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn năng lực: với phương châm trách nhiệm kỷ cương và đoàn kết, Ban chấp hành Đảng bộ xã đã thể hiện sự dân chủ trong sinh hoạt, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, chính quyền.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc của Đảng theo Điều lệ Đảng, phát huy tinh thần và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu với tinh thần tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Thường xuyên chăm lo, củng cố các tổ chức trong hệ thống chính trị Đảng uỷ đã thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch giới thiệu các nhân sự ứng cử các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Năm 2022, Đảng uỷ lãnh đạo các Chi bộ tổ chức Đại hội thành công. Sau Đại hội các chi bộ và các tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, v.v vai trò của các tổ chức được nâng cao, mỗi cán bộ, đảng viên, tự soi, tự sửa theo 27 biểu hiện, nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Về công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị: Đảng uỷ chỉ đạo đẩy mạnh cuộc vận động Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, trong đó tiếp tục thực hiện kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị. Tổ chức quán triệt triển khai đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân 9 Nghị quyết, 3 Chỉ thị, 3 Kết luận của cấp trên nghiêm túc, kịp thời, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII) và Kết luận số 21-KL/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức lối sống, tư tưởng chính trị, biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá gắn với Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương (khoá XIII) về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Phối hợp tổ chức tốt các hội nghị, hội nghị trực tuyến. Số đảng viên tham gia đạt tỷ lệ 85% và 95% viết bài thu hoạch và 100% đảng viên đăng ký học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Công tác tổ chức bộ máy và sắp xếp cán bộ luôn được quan tâm lãnh đạo, xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ từ xã đến thôn. Đảng uỷ triển khai chỉ đạo các chi bộ, các thôn tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2022-2025 và bầu thôn trưởng 2021-2023. Công tác cán bộ thực hiện đúng theo quy trình từ khâu đánh giá, quy hoạch đảm bảo công khai, dân chủ, đúng quy định. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về chuyên môn, lý luận gắn với công tác giáo dục phẩm chất, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm trong công tác. Lãnh đạo tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thành công tốt đẹp.
Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã tham mưu cho Đảng uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra toàn khoá; phân công nhiệm vụ cho các uỷ viên chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Qua kiểm tra giám sát đã chỉ rõ những ưu điểm, khuyết điểm, yêu cầu các chi bộ, cá nhân nghiêm túc khắc phục những khuyết điểm đã được chỉ rõ. Công tác thi hành kỷ luật được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm theo đúng quy định của Đảng. Đến năm 2023, Đảng uỷ đã xử lý kỷ luật 02 đảng viên vi phạm những điều đảng viên không được làm góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật và sức chiến đấu của tổ chức Đảng cũng như đảng viên.
Công tác dân vận: Khối dân vận của Đảng uỷ và các tổ dân vận ở các thôn được kiện toàn sau khi Đại hội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ, Khối dân vận đã xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, vận động Nhân dân thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định ở khu dân cư. Trong thời gian cùng cả nước phòng chống dịch Covid-19, khối dân vận đã tham gia việc thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn toàn xã.
Đối với chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội:
Về xây dựng chính quyền: Đảng uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cho cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Kết quả đã có 100% cử tri đi bỏ phiếu, Hội đồng nhân dân xã đã bầu được 24/25 đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân đúng quy định của pháp luật . Đến tháng 5/2023, Hội đồng nhân dân đã tổ chức 5 kỳ họp chính thức và 01 kỳ họp bất thường. Các kỳ họp được chuẩn bị chu đáo về nội dung và chất lượng kỳ họp được nâng lên rõ rệt.
Uỷ ban nhân dân xã sau bầu cử Hội đồng nhân dân được kiện toàn và kịp thời xây dựng, ban hành quy chế làm việc. Trong những năm 2020-2023, Uỷ ban nhân dân xã tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện giữ vững kỷ cương, kỷ luật ở công sở, thực hiện nghiêm chế độ một cửa, chế độ tiếp dân. Tiếp tục dẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời cùng với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội tổ chức các chương trình phối hợp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, công tác chính sách, an sinh xã hội và thực hiện tốt các chỉ tiêu về chuyển đổi số.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra. Trong 3 năm (2020-2023), các đoàn thể: Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Công đoàn xã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ. Sau Đại hội, công tác cán bộ của mỗi đoàn thể được kiện toàn, bầu mới. Ban chấp hành các đoàn thể đã nỗ lực phấn đấu, đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương đồng thời làm tốt những nhiệm vụ của cơ quan cấp trên giao. Bên cạnh đó, các đoàn thể đã thực hiện tốt công tác phối hợp các nhiệm vụ trọng tâm như: Công tác phòng chống dịch Covid-19, ra mắt mô hình đảm bảo vệ sinh môi trường; mẹ đỡ đầu kết nối yêu thương; tuyến đường kiểu mẫu; đàm cưới văn minh, tang tiến bộ, Phối hợp tuần tra Nhân dân, hoàn thành chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp.
Trong 3 năm (2020-2023), mặc dù gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng với tinh thần chủ động, đoàn kết, quyết tâm cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã các mặt kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của xã Xuân Minh đã đạt kết quả tích cực. Đó là nguồn động lực để Đảng bộ và Nhân dân trong xã tiếp tục bứt phá sớm hoàn thành mục tiêu xây dựng xã đạt nông thôn mới nâng cao và tiến tới nông thôn mới kiểu mẫu.
Phát huy truyền thống quê hương, với 4 kỳ Đại hội, Đảng bộ xã Xuân Minh ngày càng khẳng định sự vươn lên mạnh mẽ của vùng quê cách mạng. Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh tin tưởng với những kết quả đạt được nhất là sự lãnh đạo năng động, sáng tạo của Đảng bộ xã nhất định Đảng bộ và Nhân dân sẽ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra.
1 Trích trong cuốn 50 năm hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Sử học, Hà Nội, ......, tr...........
1 Quang Hoa là làng mới được tháp bởi hai làng cũ là Yên Thọ và Phú Tình.
1 Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 29.
1 Trích trong Năm mươi năm hoạt động của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Thanh Hoá, NXB Thanh Hoá, 1980, tr. 214.
Tình hình kinh tế xã hội Xuân Minh
Sơ bộ tình hình kinh tế - xã hội xã Xuân Minh qua các giai đoạn
Tháng 7-1954, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu bước sang thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.
Tháng 9 1954, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã kịp thời ra Nghị quyết để chỉ rõ nhiệm vụ chung của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại hiệp định đình chiến để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc1.
Tinh thần Nghị quyết đó của Đảng đã nhanh chóng được quán triệt sâu sắc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tại Xuân Minh, trong khung cảnh tưng bừng, phấn khởi của những ngày vừa hoà bình lập lại, cán bộ, đảng viên, dân quân tự vệ và nhân dân vẫn đề cao cảnh giác để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xuyên tạc và phá hoại của địch. Mặc dù nhiều nơi ở miền núi, thành thị, nông thôn và các vùng công giáo, bọn thổ phỉ, gián điệp, phản động tay sai cho đế quốc Mỹ ra sức quấy rối và phá hoại nền an ninh chính trị của ta, nhưng ở Xuân Minh, không một kẻ gian nào có thể lọt vào được. Lúc này, công tác trị an được chú ý rất nghiêm ngặt. Lực lượng công an và dân quân địa phương được củng cố, tăng cường và ngày đêm tuần tra, cảnh giác để nhân dân yên tâm lao động, sản xuất. Những biểu hiện của tư tưởng hoà bình, nghỉ ngơi và lơ là mất cảnh giác của một số cán bộ và quần chúng đã được uốn nắn kịp thời. Qua việc học tập và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng mà cơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể của quần chúng được tăng cường, củng cố vững mạnh hơn.
Nghe theo lời gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch, mọi tầng lớp nhân dân Xuân Minh đã đoàn kết một lòng cùng với nhân dân cả tỉnh bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế (1954-1957) với một tinh thần hăng hái, quyết tâm rất cao.
Ngay từ cuối tháng 7-1954 trở đi, nhân dân ở đây đã tập trung lực lượng lao động vào việc sản xuất vụ mùa cho kịp thời vụ, đồng thời tranh thủ san lấp hào luỹ và phát quang các hàng rào kiên cố ở xung quanh làng để việc đi lại, sản xuất được dễ dàng và tiện lợi hơn. Thế là các làng kháng chiến đã trở thành các làng sản xuất và xây dựng.
Thời gian này, nắng hạn kéo dài. Việc tạo ra nguồn nước để cấy hết diện tích là một việc cần kíp ở địa phương. Một phong trào thuỷ lợi được phát động nhanh chóng và sôi nổi ở tất cả các làng. Quần chúng nhân dân đã hăng hái tham gia vào việc đắp đập sông Cầu Chày và đào giếng, khơi mương, đắp bờ giữ nước ở khắp các xứ đồng. Các tổ đổi công của các làng đã phát huy vai trò tích cực của mình trong việc lấy nước chống hạn này. Nhờ vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, tất cả mọi diện tích đất canh tác ở đây đều đã được cấy kịp thời vụ.
Bên cạnh việc ra sức khôi phục và phát triển sản xuất ở địa phương, nhân dân Xuân Minh còn tích cực đóng góp sức người, sức của vào các phong trào chung của tỉnh. Nhiều người đã hăng hái tự nguyện đi thanh niên xung phong, đi công nhân cầu đường, hoặc công nhân các công trường, nhà máy để làm nhiệm vụ khôi phục kinh tế và kiến thiết xây dựng. Đặc biệt, hàng trăm nhân công của Xuân Minh được huy động liên tiếp lên công trường sửa chữa đập Bái Thượng, đập Bàn Thạch, cống Phong Lạc và hệ thống nông giang sông Chu đã tích cực lao động ngày đêm để góp phần đưa nước về đồng ruộng ở các vùng trong tỉnh (12-1954).
Cuối năm 1954, một trận lụt lớn làm vỡ đê sông Chu đã gây rất nhiều thiệt hại và tình trạng đói kém đối với nhiều địa phương trong, ngoài huyện Thọ Xuân. Riêng vùng Xuân Minh còn bị ảnh hưởng trực tiếp của nạn lụt sông Cầu Chày, cho nên lúa và hoa màu cũng bị trôi, hỏng hết. Trước tình hình khó khăn nghiêm trọng này, nhân dân Xuân Minh lại phát huy tinh thần đoàn kết và tương thân, tương ái để giúp đỡ lẫn nhau vượt qua nạn đói. Đảng và chính quyền địa phương còn tìm ra nhiều biện pháp tích cực để nhanh chóng ổn định tình hình đời sống nhân dân. Một phong trào trồng các loại cây lương thực, hoa màu và rau quả ngắn ngày đã được phát động sâu rộng ở tất cả các làng. Nhờ đó mà tình trạng khó khăn, đói kém đã bị đẩy lùi.
Đầu năm 1955, giữa lúc phong trào quần chúng đang trên đà khí thế và vừa thu được một số thành tích bước đầu thì ở Xuân Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc cải cách ruộng đất lại được tiến hành tiếp tục một cách khẩn trương để hoàn thành triệt để nhiệm vụ phản phong một nhiệm vụ chiến lược cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ. Đến cuối năm 1955, cuộc cải cách ruộng đất ở Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu được những kết quả rất to lớn: Toàn bộ giai cấp địa chủ bóc lột ở tất cả các làng đã bị đánh đổ, quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất hoàn toàn xoá bỏ. Hơn 500 mẫu ruộng đất và hơn 100 gian nhà ngói cùng mấy chục trâu, bò và nhiều tài sản khác của giai cấp địa chủ đã bị tịch thu để chia cho hàng mấy trăm hộ nông dân. Riêng về ruộng đất thì đối với những người không có và thiếu ruộng đều được chia để đảm bảo mức bình quân hơn 3 sào/ một nhân khẩu.
Thế là, đến đây, sau 25 năm đi theo Đảng làm cách mạng (1930-1955), giai cấp nông dân Xuân Minh đã được thực hiện triệt để khẩu hiệu người cày có ruộng một khẩu hiệu chiến lược được đề ra từ ngày Đảng ra đời. Với cải cách ruộng đất, giai cấp nông dân Xuân Minh hoàn toàn thoát khỏi ách bóc lột phong kiến có từ ngàn đời để thực sự bước sang địa vị làm chủ về chính trị, kinh tế tại địa phương.
Qua cải cách ruộng đất, nhận thức, quan điểm, lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng cao, làm cho tình cảm công nông liên minh và khối đoàn kết nông thôn được củng cố, tăng cường vững chắc hơn bao giờ hết. Tuy vậy, quá trình cải cách ruộng đất cũng có phạm những sai lầm phổ biến và nghiêm trọng (đặc biệt là việc chỉ đạo thực hiện). Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch đã kịp thời phát hiện và chỉ đạo việc sửa sai từ cuối năm 1956 đến giữa năm 1957. Nhờ đó mà những thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất mới phát huy được ý nghĩa tích cực một cách trọn vẹn. Qua sửa sai, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân càng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng. Rồi tiếp sau đó, sơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể lại được củng cố, kiện toàn một cách vững chắc hơn. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng ở đây mới được phát huy và đáp ứng kịp thời với sự đòi hỏi ngày càng cao của việc tổ chức, chỉ đạo các phong trào quần chúng.
Song song với cải cách ruộng đất, việc ra sức phát triển sản xuất để phục hồi kinh tế tại Xuân Minh cũng được đẩy mạnh toàn diện. Các tổ đổi công ở các làng lúc này đã thu hút được 100% số hộ nông dân tham gia đã hoạt động ngày, đêm rất tích cực và có hiệu quả trong các phong trào làm thuỷ lợi, làm phân bón và khai hoang vỡ hoá để tăng diện tích gieo trồng, v.v...
Sau ba năm khôi phục kinh tế (1954-1957), đời sống của nhân dân Xuân Minh đã đi dần vào thế ổn định. Đặc biệt về mặt sản xuất lương thực một khâu cơ bản trong đời sống đã giành được thắng lợi liên tiếp trong mấy vụ đầu. Trong 3 năm, diện tích canh tác nông nghiệp của toàn xã đã tăng hơn so với 1954 là 25 mẫu. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những bước phát triển mới và hoạt động rất tích cực. Đường làng, ngõ xóm cũng được mở rộng và ngày càng phong quang, sạch sẽ hơn. Nhờ đó mà bộ mặt đời sống, xã hội của Xuân Minh đã tiến bộ so với thời kỳ trước hoà bình lập lại.
Mặc dù công cuộc khôi phục kinh tế của Xuân Minh có những biến chuyển đáng kể, nhưng nhìn chung thì nền kinh tế ở đây vẫn là nền kinh tế nông nghiệp cá thể, phân tán, nhỏ bé và nghèo nàn, lạc hậu. Giai cấp nông dân tuy đã thoát khỏi quan hệ sản xuất phong kiến nhưng vẫn phát triển một cách tự do, rời rạc và chưa đi vào một quĩ đạo thống nhất, cho nên nếu cứ để tiếp tục kéo dài thì nhất định sẽ nảy sinh xu hướng phát triển tư bản một nguyên nhân cơ bản của tình trạng người bóc lột người ở nông thôn. Đến lúc này, không phải riêng ở Xuân Minh mà là toàn bộ các vùng nông thôn trên miền Bắc, cuộc đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã được đặt ra một cách cấp bách. Giữa lúc đó, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tất cả mọi thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh để đưa miền Bắc tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Cuối năm 1958, quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết của hội nghị lần thứ XIV của Trung ương Đảng (11-1958), Đảng bộ Thanh Hoá đã phát động một phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa (mà trọng tâm là cải tạo và phát triển nông nghiệp) một cách mạnh mẽ và sâu rộng. Lúc này, đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công lên hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp rồi tiến lên hợp tác xã bậc cao.
Ở Xuân Minh, từ tháng 12-1958 và cả năm 1959, cuộc vận động hợp tác hoá diễn ra một cách nhanh chóng, rộng khắp và thực sự đã trở thành một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi và mạnh mẽ
Đến cuối năm 1959, hơn 70% số hộ nông dân Xuân Minh từ tổ đổi công đã tự nguyện tham gia hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp để quản lý 67,68% diện tích ruộng đất trong toàn xã. Lúc đầu qui mô của hợp tác xã còn nhỏ bé với vài ba chục hộ. Bình quân mỗi một làng thành lập được hai hợp tác xã nông nghiệp, hoa lợi ruộng đất mà xã viên được hưởng là 25%.
Do bước đầu đã phát huy được tác dụng của con đường làm ăn tập thể trong việc tập trung sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng cường phân bón, khắc phục tưới, tiêu, v.v... đã dẫn đến việc tăng năng suất liên tiếp trong một, hai vụ liền, cho nên đến năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp trong toàn xã Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu hút được gần 100% số hộ nông dân tham gia.
Song song với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp thì việc tổ chức các hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán cũng thu được kết quả rất đáng mừng. Tuyệt đại bộ phận nông dân Xuân Minh đã hăng hái tham gia và đóng góp nhiều cổ phần để đầu tư vốn cho các tổ chức hợp tác đó hoạt động và phát huy tác dụng . Trong thực tế, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán đã thực sự trở thành ba ngọn cờ hồng phục vụ đắc lực cho việc phát triển sản xuất và nhu cầu đời sống của nhân dân ở trong xã.
Sự thắng lợi của phong trào hợp tác hoá đã dẫn đến sự thắng lợi của việc thực hiện các chỉ tiêu sản xuất, kinh tế và văn hoá xã hội. ở Xuân Minh, từ năm 1958 đến 1960, do quan hệ sản xuất mới được xác lập, và lực lượng lao động bước đầu được bố trí hợp lý cho nên về sản xuất nông nghiệp rất được đẩy mạnh. Đặc biệt, về công tác thuỷ lợi và cải tiến kỹ thuật là những mặt có nhiều tiến bộ rõ nhất. Năng suất thu hoạch về lúa, bông, khoai, lạc và những hoa màu khác cũng tăng lên trông thấy so với thời kỳ còn làm ăn cá thể. Riêng về lúa, mỗi sào thu hoạch so với trước đã tăng được từ 15-20kg. Chính những chuyển biến cụ thể đó đã có tác dụng củng cố lòng tin cho quần chúng nông dân về ý nghĩa tích cực của con đường làm ăn tập thể. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng phát triển đồng bộ và kịp thời cùng với quá trình cải tạo và phát triển kinh tế đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của địa phương ngày càng thêm đổi mới. Lúc này, công tác giáo dục phổ thông và bổ túc văn hoá được chú trọng đặc biệt cho nên đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Như vậy, sau ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập ở Xuân Minh. Đó là một thắng lợi cơ bản có tính chất quyết định đối với việc xoá bỏ và chấm dứt tình trạng người bóc lột người ở địa phương. Từ một nền kinh tế tiểu nông, cá thể, lạc hậu và nhỏ bé, Xuân Minh đã xây dựng được một nền kinh tế tập thể thuần nhất xã hội chủ nghĩa rất ưu việt. Và chính nền kinh tế đó là động lực cơ bản tạo ra sự chuyển biến cách mạng sâu sắc và toàn diện ở đây. Qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, mọi tư tưởng tiêu cực như cá nhân, tư lợi, bảo thủ, lạc hậu, phân tán, tự phát, v.v... dần dần bị đẩy lùi. Giai cấp nông dân bước đầu đi vào con đường làm ăn tập thể đã tỏ rõ khả năng, sức mạnh trong việc phát triển sản xuất và khắc phục những hậu quả thiên tai cho nên rất vững tin đi theo Đảng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng qua đợt này, cán bộ, đảng viên được nâng cao hơn về lập trường của giai cấp vô sản. Nhiều đồng chí đã tỏ ra gương mẫu, tích cực trong việc liên hệ với quần chúng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời cương quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực cản trở phong trào. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ địa phương được củng cố và tăng cường vững chắc thêm một bước để đủ sức đáp ứng với những đòi hỏi ngày một cao của công tác tổ chức, lãnh đạo phong trào cơ sở trong giai đoạn mới.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã họp để vạch ra đường lối chung của cách mạng miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và thông qua phương hướng, chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Phát huy thành tích của 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã vững bước tiến sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần rất quyết tâm và hăng hái. Tại đây, ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá được tiến hành đồng thời đã diễn ra rất sinh động.
Dưới ánh sáng của các nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960) và của đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (2-1961), cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã được nhận thức đầy đủ và sâu sắc về đường lối, nhiệm vụ cách mạng của thời kỳ mới để rồi từ đó thấy rõ được trách nhiệm của mình sẽ làm gì để thiết thực đóng góp cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà.
Tại Xuân Minh, một phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa được dấy lên sôi nổi và đều khắp ở tất cả các làng. Nội dung và mục đích của phong trào đều nhằm đưa nền kinh tế của Xuân Minh tiến lên với tốc độc mới, nhanh chóng và toàn diện hơn. Phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại phong một điển hình tiên tiến trong ngành nông nghiệp toàn quốc lúc đó được phát động đã có tác dụng cổ vũ, khích lệ tinh thần quần chúng rất cao.
Đến cuối năm 1961, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh đã đạt được thắng lợi rất cơ bản. Tất cả các hợp tác xã bậc thấp với qui mô vài chục hộ đã được tháp lại để chuyển lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao với qui mô toàn thôn từ gần 100 hộ trở lên. Đó là một thuận lợi rất lớn để Xuân Minh bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Lúc này, toàn xã có 6 hợp tác xã (mỗi làng là một hợp tác xã) là: Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Xá Lê, Quang Hoa1 và Thiên Lộc.
Quán triệt nghị quyết Tăng cường cơ sở Đảng ở nông thôn để củng cố hợp tác xã và đẩy mạnh sản xuất toàn diện của Hội nghị Ban chấp hành tỉnh đảng bộ, tháng 11 năm 1961 Đảng bộ cơ sở Xuân Minh được thành lập, đã chú trọng rất đúng mức đến việc kiện toàn lại sự lãnh đạo của cấp uỷ và Chi bộ Đảng về mọi mặt để đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng có trách nhiệm sâu sát đối với các phong trào của quần chúng. Lúc này, việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện được xác định là nhiệm vụ trọng tâm số một. Bên cạnh việc ra sức phát triển cây lương thực thì việc phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi cũng được chú trọng.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật từ năm 1962 trở đi cũng được tiến hành thường xuyên.
Trong thời gian này, ở tất cả các hợp tác xã của Xuân Minh đều đã thực hiện xong nhiệm vụ công hữu tư liệu sản xuất và việc phân phối ăn chia theo công điểm, cho nên đã có tác dụng kích thích rất cao đối với người lao động.
Nói chung, trong giai đoạn bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), do quán triệt đúng đắn tinh thần nghị quyết của Đảng và biết vận dụng các nhiệm vụ chính trị cụ thể vào hoàn cảnh địa phương một cách thích hợp, cho nên cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Đặc biệt về mặt thuỷ lợi là mặt nổi bật nhất ở đây. Có thể nói đây là khâu cơ bản số một đối với việc phát triển nông nghiệp. Là một nơi luôn luôn bị thiên tai đe doạ và đồng ruộng thường ở trong tình trạng chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã úng, cho nên, việc canh tác nông nghiệp của Xuân Minh gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đồng ruộng ở đây không được ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống nông giang sông Chu. Mặc dù là vùng có sông Cầu Chày đi qua, nhưng để khai thác được nguồn nước cho nông nghiệp cũng không phải là chuyện dễ dàng. Trước đây, việc sản xuất, canh tác gần như lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, cho nên năng suất mùa màng thường hay bấp bênh và không ổn định. Vấn đề thâm canh tăng năng suất ở đây quả thực là điều rất nan giải, đòi hỏi phải đầu tư tiền vốn và sức lực rất lớn thì mới có thể giải quyết được. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và mấy năm sau hoà bình, mặc dù Đảng và chính quyền địa phương có chú ý phát động nhân dân làm công tác thuỷ lợi (như đào giếng, đắp đập, khơi ngòi, v.v...) trong một phạm vi và chừng mực nhất định, nhưng nhìn chung, những cố gắng đó vẫn chưa đủ đáp ứng đến yêu cầu tưới, tiêu và canh tác ở đây. Đến năm 1958, toàn xã Xuân Minh vẫn chưa có xứ đồng nào có thể cấy được hai vụ lúa. Trong tổng số 760 mẫu ruộng đất, chỉ có 1/3 diện tích là kết hợp được một vụ lúa và một vụ màu, còn lại tất cả là chỉ làm được một vụ lúa. Cho nên, nếu năm nào bị mất mùa vì thiên tai thì đời sống nhân dân sẽ cơ cực không thể nào tả hết. Căn cứ vào tình trạng cụ thể đó mà Đảng bộ và chính quyền địa phương đã tập trung mọi cố gắng để tổ chức và lãnh đạo nhân dân làm tốt công tác thuỷ lợi trong nhiều năm liền. Đặc biệt là từ khi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập ở vùng nông thôn Xuân Minh thì công tác thuỷ lợi mới thực sự trở thành một phong trào quần chúng hết sức to lớn và mạnh mẽ. Và thực tế ở đây đã diễn ra rất đúng như đường lối của Đảng đã vạch trong giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa là hợp tác hoá phải đi đôi với thuỷ lợi hoá. Chỉ có như vậy thì mới có thể giải quyết vấn đề thâm canh tăng vụ và nâng cao năng suất cây trồng được.
Từ năm 1961-1965, hàng mấy vạn ngày công đã được huy động liên tục vào việc xây dựng hệ thống thuỷ lợi và kiến thiết lại đồng ruộng trong toàn xã (như đào mương, đắp đập, khơi hồ, khơi mau và làm bờ vùng, bờ thửa, v.v...). Trong 5 năm liền, toàn xã đã đào được gần 15.000m mương trên tất cả các xứ đồng theo một qui hoạch thống nhất, đồng thời nạo vét được hàng chục hồ mau để giữ nước và kiến thiết hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa. Nhờ đó mà việc tưới tiêu chủ động đã được khắc phục một bước rất kết quả. Năm 1963, 1964 các hợp tác xã ở đây đã được trang bị một số máy bơm loại vừa và nhỏ để phục vụ việc chống úng và chống hạn.
Nhờ những cố gắng lớn lao của công tác thuỷ lợi mà việc thâm canh, tăng năng suất cây trồng ở Xuân Minh đã bắt đầu phát triển và mở ra những triển vọng rất đáng mừng. Cuối năm 1964, hàng mấy trăm mẫu ruộng đất từ chỗ chỉ cấy được một vụ lúa, nay đã chuyển sang cấy được hai vụ lúa. Đó là một tiến bộ vượt bậc mà những năm trước chẳng bao giờ có. Đây cũng là một chứng minh hùng hồn về sự ưu việt và tính hơn hẳn của con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa so với con đường làm ăn cá thể trước kia.
Năng suất lúa và các loại hoa màu đã tăng lên trông thấy. Riêng lúa đã đạt năng suất từ 4-4,5 tấn/ha hai vụ, còn khoai cũng đạt được từ 6-7 tấn/ha.
Lúc này, phong trào thi đua học tập hợp tác xã Đông Phương Hồng (xã Thọ hải) và hợp tác xã Thắng Lợi (xã Xuân Thành) là những điển hình tiên tiến trong phong trào thâm canh tăng năng suất ở tỉnh ta được phát động rộng rãi ở Xuân Minh trên tất cả các mặt. Đặc biệt, phong trào làm phân bón ruộng đã thu hút được đông đảo lực lượng thanh niên, học sinh và nhân dân tham gia phổ biến nhất là việc làm phân xanh và tận dụng đất bùn ở các ao hồ. Bên cạnh việc sử dụng phân chuồng, nhân dân Xuân Minh cũng đã mạnh dạn dùng phân bắc để bón ruộng. ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được các nhà ủ phân đúng kỹ thuật. Trên cánh đồng, hay đường làng, ngõ xóm, ở chỗ nào không phải đất canh tác đều được tận dụng để trồng điền thanh vừa sạch mát mà vừa là nguồn phân bón rất có chất lượng. Nhờ có phong trào làm phân này mà đất đai canh tác càng được tăng độ mùn và mầu mỡ hơn.
Về công cụ lao động cũng không ngừng được cải tiến ngay sau khi thành lập hợp tác xã. ở Xuân Minh đã diễn ra phong trào bỏ cày chìa vôi, lên ngôi cày 51 và dùng cào cải tiến theo kiểu Nghệ An, v.v... Để giải phóng đôi vai, một số phương tiện vận chuyển phục vụ sản xuất như xe trâu, xe bò, xe cải tiến, xe đạp thồ, xe cút kít cũng được đưa vào sử dụng rất hiệu quả. Đường xá ra đồng cũng được mở rộng để việc vận chuyển, đi lại được thuận tiện. Năm 1964, phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi và máy bừa lần đầu tiên đã có mặt trên đồng ruộng Xuân Minh và phát huy tác dụng một cách rất tích cực. 1/3 diện tích đất đai đã được sử dụng phương tiện cơ giới. Đó là một điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động chân tay nặng nề của con người.
Từ năm 1961-1965, nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật đã được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như ngâm giống theo phương pháp ba sôi, hai lạnh, cấy dầy và bỏ nhiều phân, v.v... Việc chăm bón theo từng thời kỳ sinh lý của cây trồng cũng rất được chú ý. Một số giống cũ có năng suất thấp đã bị loại bỏ để thay thế vào đó là các giống mới có năng suất cao. Tất cả những cố gắng đó đã góp phần làm cho năng suất lúa mỗi sào tăng hơn trước từ 30-40 kg thóc.
Về chăn nuôi cũng là một tiến bộ nhanh chóng. Hợp tác xã nào cũng xây được chuồng trại chăn nuôi lợn tập thể với số lượng ban đầu từ 30-50 con. Đàn trâu, bò trong toàn xã đã có tới gần 700 con. Đó là nguồn sức kéo quan trọng trong nông nghiệp. Riêng về lợn, ngoài đàn lợn tập thể thì mỗi gia đình cũng nuôi được từ một con lợn trở lên. Ngoài ra, ở các hợp tác xã còn phát triển cả nghề nuôi cá nước ngọt ở các ao hồ và nuôi vịt đàn để lấy trứng, v.v... Nhờ đó, mà nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong xã đã được giải quyết một cách thường xuyên.
Về thủ công nghiệp: ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được lò gạch, lò vôi để cung cấp cho yêu cầu xây dựng và sản xuất. Nghề mộc, nghề nề, nghề làm giắng, đan lát, kéo sợi, v.v... cũng rất được khuyến khích để tăng thu nhập đời sống gia đình, đồng thời để phục vụ cho yêu cầu đời sống của nhân dân.
Nói chung, sự nghiệp phát triển kinh tế của nhân dân Xuân Minh trong 5 năm (1961-1965) có những biến đổi rất cơ bản và nhanh chóng. Đời sống nhân dân đã được cải thiện thêm một bước. Bộ mặt xóm làng mỗi ngày một khang trang, tươi đẹp hơn. Bên cạnh đó, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất nổi bật. So với ngày hoà bình vừa lập lại, số học sinh phổ thông của xã Xuân Minh đã tăng gấp 4 lần. Toàn xã có một trường cấp I với trên 10 lớp và gần 500 học sinh. Nhiều học sinh đã được chuyển lên học cấp II, cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp. Đến tháng 9-1965, toàn xã lại được mở thêm một trường cấp II với 4 lớp và trên 200 học sinh. Công tác bổ túc văn hoá vẫn được phát triển không ngừng. Trường vừa học vừa làm cấp II, III của Xuân Minh được ra đời trong thời gian này đã phát huy tác dụng tích cực đối với việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
Về y tế: Toàn xã có một trạm xá với 5 giường bệnh và 5 cán bộ y tế (trong đó có 1 y sĩ, 2 y tá và 2 nữ hộ sinh). ở hợp tác xã nào cũng có đội vệ sinh phòng dịch chuyên môn chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Việc tiêm chủng phòng bệnh được tiến hành thường xuyên, cho nên đã kịp thời ngăn chặn được mọi dịch bệnh. Đến năm 1965, hơn 80% gia đình đã có giếng nước và 100% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Đó là một tiến bộ vượt bậc so với những năm trước đó.
Về nếp sống mới thì đã thanh toán được triệt để các tệ nạn của xã hội cũ. Mọi đám ma, đám cưới đều do đoàn thể và hợp tác xã đứng ra tổ chức, đảm bảo được sự ấm cúng, vui vẻ và giảm bớt được sự tốn kém cho nhân dân. Do đời sống phát triển nên phong trào văn nghệ quần chúng cũng có nhiều tiến bộ. ở hợp tác xã nào cũng thành lập được đội văn nghệ và thường xuyên tổ chức phục vụ nhân dân. Công tác thông tin tuyên truyền cũng phát huy được tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn, cổ động các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ.
Tháng 3-1964, trong hội nghị chính trị đặc biệt ở Hà Nội, Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi mỗi người dân phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Đáp lời kêu gọi đó, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái thi đua làm hết sức mình để phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết là phải hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu kế hoạch được giao.
Như vậy, với thời kỳ bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa vừa xác lập đã được củng cố tăng cường vững chắc hơn. Đời sống nhân dân được cải thiện một phần cơ bản. Tình trạng bất ổn định và túng đói thường xuyên đã bị đẩy lùi. Cơ sở vật chất kỹ thuật của địa phương bước đầu được xây dựng và tăng cường. Nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa đã hình thành và đang mở ra những triển vọng tốt đẹp. Tất cả những thành quả đó đã tạo ra sức mạnh và thế đi vững chắc của nhân dân Xuân Minh trong giai đoạn mới giai đoạn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến tranh.
II. VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG VÀ CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC
Giữa lúc nhân dân ta đang dốc sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đế quốc Mỹ liều lĩnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc rất điên cuồng.
Với tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng kiên cường, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái lao vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước để giữ vững lời thề không có gì quý hơn độc lập tự do.
Bước sang thời chiến, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã nhanh chóng chuyển hướng kịp thời để thích nghi với tình hình mới. Bên cạnh việc cố gắng để duy trì và phát triển sản xuất thì công tác phòng không nhân dân và tổ chức phòng thủ chiến đấu được triển khai một cách khẩn trương, mau lẹ. Đảng bộ và chính quyền địa phương đã huy động mọi lực lượng nhân dân đào được hơn 10.000m giao thông hào chạy dọc theo các đường làng, ngõ xóm, đồng thời kiến thiết được hơn 3.000 hầm trú ẩn ở các gia đình và nơi công cộng. Các lớp học phổ thông cũng nhanh chóng được phân tán đến những nơi kín đáo để đắp thành, đắp luỹ che chắn bảo vệ cho học sinh yên tâm học tập. Các lớp học này thực sự là lớp học phòng không kiên cố. Trên những gò cao, hoặc giữa cánh đồng, các trận địa trực chiến của dân quân cũng được bố trí sẵn sàng để làm nhiệm vụ săn máy bay Mỹ ở tầm thấp. ở mỗi làng đều thành lập được các đội cứu tải thương và đội phòng cháy chữa cháy để phục vụ kịp thời khi chiến sự diễn ra. Nói chung, toàn xã đều trong tư thế sẵn sàng để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Mặc dù không phải là nơi trọng điểm đánh phá ác liệt, nhưng công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở Xuân Minh vẫn được phát huy cao độ. Trong thời gian đơn vị bộ đội ra đa về đóng tại địa phương, nhân dân Xuân Minh đã hết lòng giúp đỡ về nhiều phương diện. Hàng mấy ngàn ngày công của nhân dân trong xã đã được huy động đến để cùng với bộ đội ngày đêm kiến thiết các ụ pháo và ụ che chắn ra đa. Lực lượng dân quân trực chiến cùng với các khẩu đội pháo của bộ đội đã tạo thành thế trận vững chắc bảo vệ cho ra đa hoạt động được an toàn và liên tục.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại này, nhân dân Xuân Minh cũng đã chia sẻ tình cảm cùng với đồng bào Vĩnh Linh, Quảng Bình để đưa gần 300 cháu về nuôi và săn sóc. Đến khi kết thúc chiến tranh, các cháu đều lớn khôn và khoẻ mạnh để trở về xum họp với gia đình thân yêu sau những năm xa cách. Không những thế, nhân dân ở đây còn đón nhận và giúp đỡ một số cơ quan của tỉnh về đây sơ tán. Và trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước này, tình cảm công nông binh lại được củng cố vững chắc và tăng cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Do công tác phòng không nhân dân và sự đề cao cảnh giác ở địa phương được thực hiện tốt, cho nên, trong suốt những năm chiến tranh phá hoại, Xuân Minh vẫn không bao giờ bị lộ mục tiêu để cho địch bắn phá. Tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu không bao giờ bị giảm sút, mà trái lại, ngày một diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp hơn. Các phong trào Quyết thắng của dân quân tự vệ, Ba sẵn sàng của thanh niên, Ba đảm đang của phụ nữ, v.v... được phát động thường xuyên đã tạo ra một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi ở địa phương. Khẩu hiệu Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong suốt thời gian của hai cuộc chiến tranh phá hoại đã thực sự trở thành phương châm hành động cách mạng chung của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh.
Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều thanh niên ở đây đã hăng hái lên đường ra tiền tuyến làm nhiệm vụ chiến đấu. Trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Xuân Minh có 463 người đi bộ đội và hàng trăm người đi thanh niên xung phong, đi công nhân quốc phòng và công nhân hoả tuyến. Bình quân cứ gần 4 người dân lại có một người đi bộ đội. Đó là một tỉ lệ rất cao thể hiện sự đóng góp to lớn của nhân dân Xuân Minh đối với cuộc kháng chiến vĩ đại này. Nhờ thành tích này mà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, xã Xuân Minh đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Trên các chiến trường, nhiều đồng chí đã lập được chiến công suất sắc. Gần 500 Huân, Huy chương các loại phần thưởng cao quí của Đảng và Nhà nước đã được gắn trên ngực những người con của nhân dân Xuân Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ này đã chứng minh điều đó. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng cho sự nghiệp vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc. 102 liệt sĩ của Xuân Minh đã góp phần máu xương để tô thắm cho ngọn cờ quang vinh của Đảng.
Bên cạnh thành tích chi viện cho tiền tuyến thì thành tích về công tác hậu phương quân đội ở đây cũng là sự nổi bật. Chế độ, chính sách đối với gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được thực hiện rất đầy đủ, đặc biệt là đối với những gia đình có nhiều khó khăn đã được chính quyền, đoàn thể và hợp tác xã tập trung giúp đỡ về nhiều mặt. ở làng nào có hiện tượng chưa thực hiện tốt những chủ trương, chính sách đó đều được uốn nắn một cách kịp thời. Nhờ đó mà người ra đi và người ở lại đều phấn khởi và an tâm để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Một điều đặc biệt là suốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ở Xuân Minh không hề có một người nào đào ngũ và trốn tránh nhiệm vụ. Đó là một thành tích tiêu biểu cho truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Xuân Minh.
Song song với công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu thì nhiệm vụ duy trì và phát triển sản xuất vẫn được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm số một ở địa phương. Dưới tiếng gầm rít của máy bay và bom đạn Mỹ, trận địa sản xuất và xây dựng của Xuân Minh vẫn không ngừng phát triển và lớn mạnh. Phong trào Tay cày tay súng, tay liềm tay súng của lực lượng thanh niên và dân quân ở đây đã có tác dụng khích lệ, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái bám đồng ruộng để sản xuất. Phong trào mỗi người làm việc bằng hai cũng được phát động rất sâu rộng để tận dụng và phát huy sức lao động to lớn của mọi người.
Trong điều kiện đất đai canh tác khó khăn và luôn luôn bị thiên tai địch hoạ đe doạ, nhưng nhân dân Xuân Minh vẫn tập trung mọi cố gắng để làm thuỷ lợi, phân bón và mở rộng diện tích canh tác để thực hiện thâm canh tăng năng suất. Đến năm 1969, hơn 50% diện tích đất canh tác của Xuân Minh đã cấy được hai vụ lúa và đạt năng suất 5 tấn/ha cả năm, đồng thời đưa vụ đông trở thành vụ chính. Đó là một bước tiến đáng kể trong quá trình phát triển nông nghiệp. Lúc này, cuộc cách mạng giống và các biện pháp khoa học kỹ thuật được thực hiện phổ biến và sâu rộng cũng là một nguyên nhân làm cho năng suất thu hoạch được nâng lên. Phong trào làm ruộng tăng sản, làm bèo hoa dâu ở các làng cũng được đẩy mạnh cùng với việc cấy thẳng hàng và thực hiện các biện pháp kỹ thuật liên hoàn đã tạo ra những kết quả rất khả quan.
Bên cạnh sự tiến bộ của việc mở rộng diện tích canh tác, thâm canh tăng năng suất cây trồng và các phong trào phục vụ sản xuất khác thì về chăn nuôi cũng là một cố gắng rất lớn ở đây. Đến cuối năm 1972, đàn lợp tập thể tăng hơn so với năm 1965 là 30%. Riêng đàn lợn gia đình cũng rất phổ biến và có hiệu quả rất cao. Về đàn bò thì vẫn duy trì ở mức trên dưới 700 con.
Thắng lợi liên tục của việc phát triển sản xuất và chăn nuôi là một nguyên nhân quan trọng làm cho Xuân Minh luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu nghĩa vụ lương thực, thực phẩm của Nhà nước giao.
Nói chung, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, trải qua bao khó khăn về thiên tai, địch hoạ, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh mặc dù vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhưng vẫn giành được những tiến bộ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã (như nhà kho, sân phơi, lò giống, trại chăn nuôi, máy bơm, máy sát và nhiều công cụ cải tiến khác...) được tăng cường rất nhanh. Năng suất lúa và các loại hoa màu khác cũng đạt được những con số tiến bộ vượt bậc so với những năm trước chiến tranh. Đời sống nhân dân vẫn từng bước được cải thiện. Ngay cả lúc cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt nhất (như năm 1972) thì nhân dân Xuân Minh vẫn chắc tay cày, hay tay súng để quyết tâm phấn đấu thực hiện ba mục tiêu lớn trong nông nghiệp là: một lao động, 5 tấn thóc, 2 con lợn/ha gieo trồng. Việc phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh và toàn diện đang trên đà đi lên nhanh chóng và có rất nhiều triển vọng tốt đẹp.
Bên cạnh đấy thì sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất đáng tự hào. Mọi biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt đời sống đã được phê phán và uốn nắn kịp thời. Đội văn nghệ của xã vẫn thường xuyên mang lời ca tiếng hát để phục vụ kịp thời cuộc sống sản xuất chiến đấu ở địa phương. Trong hội diễn văn nghệ của tỉnh năm 1975, tiết mục biểu diễn của đội văn nghệ Xuân Minh đã vinh dự được tặng thưởng huy chương vàng. Tốc độ của ngành giáo dục phổ thông ở đây cũng phát triển rất nhanh. Đến năm 1975, trường cấp I, cấp II của xã có trên 700 học sinh và 26 giáo viên, nhiều năm liền được công nhận là trường tiên tiến của huyện. Số học sinh khá và giỏi mỗi ngày một tăng lên. Nhiều em còn được tham dự các kỳ thi học sinh giỏi của huyện, của tỉnh. Trường vừa học vừa làm (cấp II, cấp III) của xã được tỉnh, huyện công nhận là một điển hình về phong trào bổ túc văn hoá ở cơ sở đã và đang phát huy tác dụng cho việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ và con em nhân dân ở trong xã. Trong cuộc chiến tranh phá hoại, mặc dù có nhiều gian nan vất vả, nhưng số lượng học sinh chuyển lên cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp mỗi ngày một nhiều. Riêng hợp tác xã cũng cử nhiều cán bộ vào học ở các trường trung cấp, sơ cấp, để đào tạo thành những cán bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, thú y, cơ khí, v.v... để phục vụ trực tiếp tại địa phương. Nhà trẻ và nhà mẫu giáo của các làng cũng được phát triển, đã có tác dụng rất tốt cho nhân dân yên tâm lao động và sản xuất. Về y tế thì ở xã còn có thêm một trạm chống lao để điều trị người bệnh. Công tác vệ sinh phòng bệnh được thực hiện sâu rộng đến từng đội sản xuất Trạm xá xã đã có nhiều cố gắng đối với việc khám và chữa bệnh cho nhân dân.
Có thể nói, thông qua các phong trào chiến đấu, lao động sản xuất và phát triển văn hoá, xã hội mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh lại được củng cố và tăng cường. Đến năm 1974, tất cả các hợp tác xã ở đây đã được tháp lại để chuyển làm qui mô toàn xã. Đó là một thuận lợi rất cơ bản cho việc quản lý và điều hành sản xuất theo một guồng máy và qui hoạch thống nhất. Từ đó, phong trào tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước về quản lý trong nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa tại Xuân Minh được mở rộng từng bước một cách vững chắc.
Mùa xuân năm 1975, với cuộc tổng tấn công và nổi dậy ở miền Nam mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nửa đất nước thân yêu còn lại của chúng ta được hoàn toàn giải phóng. Từ đây, trong điều kiện Tổ quốc thống nhất, nhân dân cả hai miền Nam Bắc đã cùng chung một nhiệm vụ là giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 5
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG GIÀU MẠNH VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 2009)
I. KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ XÃ HỘI (1975 1985)
Tháng 12-1976, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), đồng thời đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là:
Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội1
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, Đảng bộ Xuân Minh đã tập trung mọi cố gắng để lãnh đạo nhân dân ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân và hoàn thành xuất sắc mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Từ đó cho đến năm 1980, sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hoá của Xuân Minh đã tiến những bước mới rất cơ bản. Việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên các mặt sản xuất, xây dựng và tổ chức đời sống được triển khai thường xuyên cùng với việc phát động rộng rãi các phong trào thi đua lao động sản xuất và cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của Xuân Minh mau đổi mới. Đảng bộ xã luôn luôn tổ chức những cuộc đấu tranh phê bình để tìm ra những mặt yếu kém về quản lý và tổ chức chỉ đạo sản xuất, rồi từ đó đề ra được những biện pháp tích cực để khắc phục nhằm thúc đẩy nền kinh tế ở địa phương phát triển toàn diện và cân đối lên một bước mới.
Trong những năm này, hàng trăm, hàng ngàn nhân lực lao động ở Xuân Minh đã lần lượt thay thế nhau để đi tham gia lao động trên các đại công trường thủ công như: Quảng Châu, sông Lý, sông Hoàng, sông Mực, Lạch Bạng, hồ chứa nước Yên Mỹ, kênh Tam Điệp, v.v... để góp phần thiết thực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng thuỷ lợi to lớn ở tỉnh ta.
Trên đồng ruộng của mình, nhân dân Xuân Minh đã ra sức cải tạo và kiến thiết lại một cách hợp lý cho phù hợp với hướng phát triển sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mặt khác, mở rộng diện tích trồng lúa hai vụ và cây công nghiệp, phục vụ xuất khẩu. Đến năm 1980, Xuân Minh không những là một trọng điểm lúa mà còn là một trọng điểm lạc ở vùng tả ngạn sông Chu của huyện Thọ Xuân.
Công tác thuỷ lợi để giải quyết vấn đề tưới tiêu ở Xuân Minh vẫn là khâu cơ bản trọng yếu, đòi hỏi phải có sự đầu tư, trang bị qui mô và khoa học của địa phương và sự giúp đỡ, hỗ trợ thêm của Nhà nước thì mới có thể khắc phục một cách ổn định được. Trong lúc chưa đủ điều kiện để giải quyết một cách triệt để, nhân dân Xuân Minh vẫn chủ động, quyết tâm khắc phục từng bước một cách cơ bản để phục vụ cho việc thâm canh tăng năng suất một đòi hỏi rất bức thiết lúc này. Trên mọi xứ đồng, hệ thống kênh mương đã được tu bổ và làm thêm một cách khẩn trương. Bên cạnh đó, việc khắc phục tình trạng lồi lõm và cao thấp không đều trên đồng ruộng cũng được tiến hành một cách gấp rút để việc tưới, tiêu được dễ dàng. Lúc này, hợp tác còn đầu tư và trang bị thêm một số máy bơm chạy dầu để khai thác nguồn nước ở sông Cầu Chày và các hồ ao. Việc tăng cường sử dụng phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi, máy bừa cũng giúp một phần quan trọng làm cho đồng ruộng Xuân Minh bằng phẳng và đỡ lồi lõm hơn. Chính tất cả những cố gắng này mà Xuân Minh mới thực hiện được việc thâm canh tăng vụ. Mặc dù không có hệ thống nông giang và điều kiện đất đai thuận lợi như các địa phương ở vùng hữu ngạn sông Chu, nhưng Xuân Minh vẫn phấn đấu giữ vững thành tích 5 tấn/ha hai vụ lúa, đồng thời cố gắng tăng cường mọi biện pháp tích cực để đưa năng suất cây trồng mỗi ngày một cao hơn.
So với một số địa phương khác ở trong tỉnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của Xuân Minh vẫn còn nghèo, nhưng dù sao, đến năm 1980 với những cái gì đã có cũng phần nào đáp ứng kịp thời những yêu cầu cần thiết của việc phát triển sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân.
Phong trào Định công hoá và học tập các điển hình tiên tiến của tỉnh trong những năm này cũng có tác dụng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh có nhiều chuyển biến rất rõ rệt, đặc biệt là việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong việc quản lý và điều hành sản xuất. Đội ngũ cán bộ quản lý từ hợp tác xã đến các đội sản xuất được kiện toàn và bổ sung những người có năng lực, nhiệt tình cách mạng vào để thay thế những người có tư tưởng bảo thủ, tuỳ tiện và vô trách nhiệm. Phần lớn cán bộ quản lý từ đội đến hợp tác xã đều được đào tạo qua thử thách, rèn luyện ở địa phương và đều đã qua học tập, bồi dưỡng ở những lớp chính trị, quản lý ngắn hoặc dài ngày do tỉnh và huyện mở. Nhờ đó mà tầm nhìn và khả năng điều hành sản xuất của đội ngũ này được nâng lên.
Với sự cố gắng, quyết tâm rất cao của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, hợp tác xã và toàn thể nhân dân, mà Xuân Minh từ một xã có nhiều khó khăn về điều kiện đất đai, canh tác đã trở thành một xã vững vàng trong phát triển sản xuất, đặc biệt là việc sản xuất lương thực và chăn nuôi là những mặt có nhiều tiến bộ nhất. Trong các năm (từ 1976-1980), nghĩa vụ lương thực và thực phẩm ở đây luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu được giao. Chính thành quả của việc phát triển sản xuất đó đã giúp cho Xuân Minh thúc đẩy được các phong trào thi đua xây dựng, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi bọn phản động bành trướng, bá quyền Bắc Kinh ra mặt phản bội và phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta thì ở Xuân Minh, hàng trăm thanh niên lại phát huy truyền thống cách mạng kiên cường của những ngày đánh Pháp và đánh Mỹ để hăng hái lên đường ra biên giới phía Bắc và phía Tây Nam làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Trong tình hình mới, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã quán triệt Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X (1979) để thực hiện phương hướng chiến lược chung ở trong tỉnh là:
Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết nhất trí, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi nhân tố tích cực, khắc phục mọi khó khăn và những mặt tiêu cực, tiếp tục tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý, kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhằm đẩy mạnh và mở rộng các ngành sản xuất, tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các yêu cầu của chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Đồng thời làm tốt nhiệm vụ quốc tế, nhất là đối với tỉnh bạn Hủa Phăn. Cho đến nay, sự phấn đấu đó đã và đang trở thành những hiện thực hết sức tốt đẹp1.
Từ năm 1981 trở đi, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phấn đấu một cách cao nhất để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, chỉ tiêu trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985), góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngay từ năm 1981 năm đầu tiên bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, Đảng bộ Xuân Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (13-1-1981) về việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (mà lúc đó gọi là khoán 100). Nhờ đó, mà chỉ sau một thời gian ngắn, ý thức làm chủ ruộng đồng và năng suất lao động của các xã viên đã tăng lên rõ rệt. Lúc này, Đảng uỷ xác định việc hoàn chỉnh công tác thuỷ lợi là một trung tâm hàng đầu cần phải được tập trung toàn tâm, toàn lực để giải quyết một cách dứt điểm và nhanh chóng nhất. Và chỉ có như vậy thì mới có thể chấm dứt được tình trạng hạn, úng một khó khăn thường xuyên diễn ra ở đây. Thời gian này, tỉnh cũng nhất trí đầu tư hỗ trợ cho Xuân Minh về tiền vốn, vật tư, thiết bị để xây dựng ở đây một trạm bơm điện cỡ vừa.
Đến năm 1983, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Sở Thuỷ lợi và Công ty Điện lực Thanh Hoá, cộng với sự cố gắng to lớn của toàn thể Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh mà trạm bơm điện của địa phương tại sông Cầu Chày đã được xây dựng hoàn chỉnh và chính thức bước vào hoạt động phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp. Thế là, sau bao nhiêu năm ước mơ và phấn đấu, vấn đề chủ động giải quyết nguồn nước tưới cho hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của Xuân Minh đã trở thành hiện thực. Có thể nói ngày khánh thành trạm bơm điện Xuân Minh đã thực sự trở thành một ngày hội lớn của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Từ đây, vấn đề thâm canh, tăng vụ và tăng năng suất cây trồng sẽ mở ra nhiều triển vọng và hứa hẹn tốt đẹp.
Qua thực tế của mấy vụ đầu (từ 1983 đến nay), năng suất thu hoạch ở Xuân Minh đã tăng lên trông thấy. Bình quân mỗi sào đã đạt được từ một tạ rưỡi đến hai tạ lúa. Đó là những con số kỷ lục mà trong những năm trước đây chẳng bao giờ có. Với đà này, triển vọng 6, 7, 8 tấn/ha hai vụ lúa của Xuân Minh đã xích lại rất gần trong tầm tay với.
Trong thời gian tới, vấn đề kiến thiết đồng ruộng và tu bổ, cải tạo hợp lý hệ thống tưới tiêu trong toàn xã vẫn còn phải tiếp tục hoàn chỉnh thêm một bước để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển sản xuất và thâm canh tăng năng suất ở đây.
Mấy năm vừa qua, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã được đẩy mạnh và áp dụng phổ biến tại Xuân Minh. Hợp tác xã cũng rất chú ý đến việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất. Việc cải tạo đất và kiến thiết đồng ruộng, việc tận dụng các nguồn phân hữu cơ đi đôi với việc tăng cường phân hoá học, việc phòng trừ sâu bệnh và các biện pháp kỹ thuật liên hoàn, gieo cấy, chăm bón, v.v... được phát động rộng rãi, thường xuyên cũng góp phần tích cực để năng suất thu hoạch ở địa phương mỗi ngày một tăng lên.
Trong tổng số hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của toàn xã bây giờ, về cơ bản đã được qui hoạch lại để sử dụng theo hướng thâm canh và chuyên canh mà tỉnh và huyện đề ra để nhằm mục đích phát triển trồng trọt, chăn nuôi và xuất khẩu. ở đây, ngoài 70% diện tích để thâm canh lúa, hợp tác xã còn giành gần 30% diện tích để trồng lạc và các loại hoa mầu khác. Riêng về lạc trong năm 1983, xã Xuân Minh được công nhận là xã loại hai ở trong tỉnh có thành tích về sản xuất lạc để xuất khẩu.
Trên cơ sở thực hiện tốt tinh thần của Chỉ thị khoán 100, việc bố trí lực lượng lao động cũng được sắp xếp lại một cách hợp lý để tận dụng triệt để sức lao động ở trong xã. ở đây, ngoài lực lượng đông đảo tập trung vào việc trồng trọt, chăn nuôi, còn có các đội chuyên về thuỷ lợi, về ngành nghề, v.v... Tất cả những cố gắng đó đã làm cho Xuân Minh ngày càng phát huy được nhiều về hiệu quả lao động cũng như về đất đai tại địa phương. Cũng bởi vì thế mà mọi chỉ tiêu nghĩa vụ Nhà nước qui định đều được thực hiện mỗi ngày một cao hơn.
Về nghĩa vụ lương thực, cả năm 1982 chỉ có 160 tấn thì năm 1985 lại tăng lên đến mức 520 tấn và thực tế đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Về nghĩa vụ thực phẩm trong hai năm 1982 1983 cũng hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao. Năm 1982, đạt 22 tấn với số lợn là 1.200 con. Năm 1983, tăng lên 32 tấn và số lợn là 1.500 con.
Ở Xuân Minh, ngoài đàn lợn tập thể thì đàn lợn của gia đình cũng phát triển một cách nhanh chóng. Nếu như những năm trước, mỗi gia đình chỉ nuôi bình quân cả năm được 1 con đến 1,5 con thì giờ đây đã nuôi được từ 2 con trở lên trong cả năm. Do đó, trong mấy năm vừa qua, ngoài việc đảm bảo lợn nghĩa vụ, nhân dân trong xã còn hăng hái tự nguyện bán lợn cho Nhà nước theo giá khuyến khích và đổi hàng. Bên cạnh đó, việc phát triển chăn nuôi cá cũng đã được chú ý hơn trước. Diện tích thả cá được tu bổ và mở rộng nhiều hơn. Hàng năm, toàn xã cũng thu hoạch được hàng chục tấn cá. Đó là nguồn thực phẩm quan trọng để giải quyết nhu cầu đời sống nhân dân.
Với những thành quả đạt được trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, và hiện tại, đã đi vào thế tương đối ổn định. Năm 1985, gần 100% gia đình ở trong xã đã có nhà ngói, sân gạch với cả một hệ thống giếng nước, nhà tắm và nhà xí rất sạch sẽ. Phần lớn các gia đình đều có xe đạp và các đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt cần thiết. Gần 20% gia đình có đài bán dẫn để nghe thời sự, tin tức. So với trước Cách mạng tháng Tám thì hiện thực đó là sự đổi đời to lớn và là sự tiến bộ vượt bậc. Tất cả những cảnh thiếu đói, mất bữa đã được giải quyết triệt để. Những cảnh gác hái thì treo niêu và mùa đông thì đắp chiếu, mùa hè thì che mưa như thời kỳ trước cách mạng đã vĩnh viễn qua từ lâu rồi. Giờ đây, nhu cầu đời sống ngày càng cao, đòi hỏi toàn thể mọi người trong xã phải quyết tâm rất lớn để đưa nền kinh tế Xuân Minh phát triển lên trình độ cao một cách toàn diện thì sự ấm no, hạnh phúc mới bền vững và đúng ý nghĩa một cách trọn vẹn.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật cũng góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá và ngược lại, cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá cũng góp phần tích cực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Thực tế đó đã thể hiện rất rõ ở Xuân Minh.
Cho đến nay, sự nghiệp văn hoá xã hội của Xuân Minh cũng phát triển một cách toàn diện và đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Về văn hoá: Việc xây dựng nếp sống mới và con người mới xã hội chủ nghĩa ở địa phương được chú trọng đặc biệt. Nhờ đó mà quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong xã được phát huy cao độ trên tất cả mọi lĩnh vực. Đến lúc này, ý thức và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân đã trở thành một bản tính tốt đẹp rất phổ biến. Ai ai cũng đều có ý thức trách nhiệm đối với lợi ích của tập thể và Nhà nước. Mọi biểu hiện tiêu cực, chống đối, lạc hậu và mê tín dị đoan đã được giải quyết một cách triệt để, để nhường chỗ cho nếp sống văn minh lành mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa được bao trùm. Hiện nay, toàn xã có riêng một Chi bộ văn hoá để tập trung chỉ đạo công tác này rất hiệu quả. Nhà thư viện được thành lập trong mấy năm qua đã phát huy tác dụng tích cực trong việc phục vụ sản xuất và nâng cao tri thức cách mạng và khoa học kỹ thuật cho cán bộ, nhân dân. Đội văn nghệ mạnh của xã cũng tích cực phục vụ đời sống sản xuất và chiến đấu ở địa phương. Nhiều vở kịch tự biên, tự diễn đã cổ vũ, khen chê kịp thời, đã có tác dụng phục vụ các nhiệm vụ chính trị rất nhạy bén. Đội thông tin lưu động cũng thường xuyên cổ động, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó cũng là một mũi nhọn của trận địa tuyên truyền ở địa phương.
Về giáo dục: Đến năm 1985, trường phổ thông cơ sở (cấp I, II) của Xuân Minh đã có tất cả là 26 lớp với trên một ngàn học sinh và 45 giáo viên. Chất lượng giảng dạy và học tập ở nhà trường mỗi ngày một tiến bộ. Số học sinh vào trường cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp tăng lên gấp bội so với mấy năm trước đó. Hiện nay, toàn xã đã có gần 400 người có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hiện đang công tác ở các cơ quan, đơn vị nhà nước, trong đó có hai người đạt trình độ phó tiến sĩ. Trường vừa học vừa làm của xã bây giờ có 4 lớp (từ lớp 10 đến lớp 12) và gần 200 học sinh. Đó cũng là một trong số những trường tiên tiến của huyện. Toàn xã có một hệ thống nhà trẻ, nhà mẫu giáo rất chu đáo, đã phát huy rất tích cực trong việc nuôi, dạy trẻ để phục vụ nhân dân yên tâm lao động, sản xuất.
Về y tế: Trạm xá xã hiện nay có 3 y sỹ, 2 y tá và 10 giường bệnh. Ngoài ra, ở đây còn có một trạm chống lao cách ly và 8 giường bệnh, do 1 y tá chuyên trách điều trị. Việc kết hợp điều trị đông, tây y cũng được chú trọng. Hàng năm, công tác vệ sinh phòng bệnh và tiêm chủng được thực hiện chu đáo. Đường làng, ngõ xóm mỗi ngày một sạch sẽ, phong quang. Nếp sống ăn ở vệ sinh đã trở thành phổ biến. Nhờ vậy mà ở Xuân Minh, các dịch bệnh nguy hiểm đã hạn chế và được ngăn chặn kịp thời.
Về thể dục thể thao thì xã cũng xây dựng được sân bóng đá, bóng chuyền để thanh niên, học sinh thường xuyên tập luyện và thi đấu.
Trải qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ xã Xuân Minh cũng lớn mạnh không ngừng. Cho đến năm 1985, toàn Đảng bộ có 282 đảng viên. Số đảng viên trẻ có năng lực và nhiệt tình cách mạng đã được bổ sung khá đông đảo. Đặc biệt là lực lượng đảng viên nữ ngày càng tỏ ra có nhiều khả năng đóng góp cho sự lớn mạnh của phong trào. Mấy năm qua, Đảng bộ luôn luôn tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị và đấu tranh phê bình cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ không ngừng được tăng cường. Nói chung, toàn thể Đảng bộ Xuân Minh hiện nay rất đoàn kết, nhất trí cho nên, đã trở thành một động lực quyết định để thúc đẩy phong trào ở đây phát triển một cách toàn diện và vững chắc.
Tóm lại, từ năm 1954 đến 1985, trải qua 31 năm phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. 31 năm đó được ghi vào lịch sử xã nhà như một đoạn đường thắng lợi vẻ vang. Sau 31 năm, bộ mặt đời sống xã hội, kinh tế của địa phương thay đổi một cách toàn diện cùng đất nước.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phát huy mọi khả năng, cố gắng để tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa để thiết thực góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ tiếp theo.
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA XUÂN MINH TRONG 23 NĂM THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN (1986 2009)
Đến năm 1985, sau mấy năm thựchiện chỉ thị khoán 100, tình hình sản xuất và quản lý lao động ở Xuân Minh nói riêng và trong huyện, trong tỉnh nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ năm 1981- 1985, chỉ trong 5 năm, từ một xã nghèo và nhiều khó khăn bất cập, Xuân Minh đã có nhiều cố gắng phấn đấu để trở thành một trong vài xã tiên tiến ở vùng tả ngạn của huyện Thọ Xuân. Trong những năm này, Xuân Minh còn được biểu dương liên tục về tinh thần vượt khó và sự năng động trong điều hành sản xuất cũng như sự chú trọng đến phát triển ngành nghề. Đặc biệt là do khai thác đựơc nguồn than đá với giá cả hợp lý mà việc nung gạch, ngói, vôi phục vụ nhu cầu đời sống, xây dựng và sản xuất của nhân dân trong xã được đáp ứng một cách kịp thời, đầy đủ hơn. Tuy nhiên đến năm 1985, việc thực hiện Chỉ thị khoán 100 cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế, tiêu cực, rõ nhất là việc xuất hiện tình trạng khoán trắng khá cao đối với nhóm và người lao động, đồng thời thực hiện không đúng với nguyên tắc "năm khâu 3 việc" như Chỉ thị 100 đã đề ra, cho nên đã dẫn đến sự mất cân bằng trong việc định công, chấm điểm và ăn chia phân phối v.v... Để nhanh chóng khắc phục tình trạng khoán trắng tiêu cực này, Đảng uỷ xã Xuân Minh đã tiến hành kiểm tra, uốn nắn sử lý kịp thời những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong đội ngũ cán bộ Đảng viên (mà chủ yếu là là ở Ban quản trị và đội ngũ sản xuất...). Nhờ đó mà tình hình chính trị, tư tưởng và các phong trào thi đua sản xuất đã trở lại ổn định để phát triển một cách thực chất hơn.
Tháng 11- 1985, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ Thọ Xuân, Đại hội Đảng bộ xã Xuân Minh đã được tổ chức để xác định nhiệm vụ và hướng đi mới trong thời gian tới. Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Xuân Hữu (nguyên Thiếu tá quân đội nghỉ chế độ tại địa phương) được tín nhiệm bầu làm Bí thư. Với nhiều gương mặt mới, Ban chấp hành Đảng bộ xã khoá này đã có nhiều cố gắng trong việc ổn định tình hình tổ chức, tư tưởng sau một vài biến động xử lý tiêu cực tại địa phương, đồng thời tiếp tục duy trì giữ vững phong trào thi đua sản xuất theo mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ đã đề ra để đáp ứng với niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã.
Bước sang năm 1986, tình hình chính trị kinh tế, xã hội của Thanh Hoá cũng như cả nước đều đứng trước những khó khăn gay gắt (như sản xuất tăng chậm và hiệu quả thấp, phân phối lưu thông có nhiều lúng túng, đời sống nhân dân còn nghèo, tiêu cực lại có chiều hướng tăng...). Bên cạnh đó, tình hình quốc tế lại đang diễn biến phức tạp, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đang tiến hành đuờng lối cải cách nhưng lại trong tình trạng khủng hoảng và mất ổn định nghiêm trọng. Điều đó cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến hướng đi của chúng ta.
Tháng 12- 1986, để tìm cách vượt qua những khó khăn thử thách nghiêm trọng đang diễn ra, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã tổ chức khẩn trương tại thủ đô Hà Nội. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật và nghiêm khắc chỉ ra nhũng sai lầm khuyết điểm, Đại hội VI đã thống nhất định ra một đường lối Đổi mới - thông thoáng, mở cửa, hội nhập để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tiến lên một cách toàn diện, vững chắc. Đến các Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX, Đảng ta vẫn kiên định lập trường đổi mới theo hướng ngày một cụ thể, hoàn thiện hơn.
Thấm nhuần đướng lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh đoàn kết một lòng để quyết tâm đem hết tinh thần, sức lực thực hiện tiếp tục hai nhiện vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cơ sở "phải đổi mới tư duy", trước hết là tư duy kinh tế, đồng thời đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác v.v...Trước mắt toàn xã cũng như toàn huyện, toàn tỉnh cần tập trung thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục tiêu kinh tế là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh cũng phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách. Đó là sự thiếu thốn nghiêm trọng về tiền vốn, vật tư, làm hạn chế rất nhiều đến việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất nông nghiệp. Việc vay vốn ngân hàng đến việc thu mua và bao tiêu sản phẩm đều có nhiều bất cập, cộng thêm vào đó là có sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường làm giá cả bấp bênh đã gây ảnh hưởng đến sản xuất và người lao động. Trong công cuộc đổi mới, việc tiếp cận với các tiến bộ khoa học kỹ thuật của cán bộ và nhân dân trong xa cũng còn nhiều hạn chế, và lề thói làm ăn nhỏ lẻ phân tán, lạc hậu manh mún của nhân dân vẫn chưa chấm dứt cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc canh tác theo quy hoạch thâm canh và định canh. Ngoài ra, trước những tác động gay gắt của cơ chế thị trường, việc quản lý tổ chức thực hiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của đội ngũ cán bộ trong xã còn biểu hiện sự lúng túng và thiếu kinh nghiệm. Do đó, trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ đặc biệt chú trọng đến việc đổi mới đội ngũ cán bộ trên cở sở kiện toàn theo quy trình dân chủ để lựa chọn, đề bạt bổ sung kịp thời những người có trình độ năng lực, phẩm chất tốt với xu hướng trẻ hoá từng bước để gánh vác những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng bộ và nhân dân giao phó. Và nhiệm vụ này đã được thực hiện tốt qua các kỳ Đại hội Đảng bộ từng năm 1986- 1987 cho đến nay. Với truyền thống của quê hương cách mạng luôn lấy đoàn kết làm mục tiêu then chốt, cán bộ Đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã chung sức chung lòng tháo gỡ khó khăn từng bước để vươn lên giành thắng lợi theo đường lối đổi mới.
Ngày 5 tháng 4 năm 1988, để khắc phục kịp thời những hạn chế, tiêu cực trong việc thực hiện khoán 100, mở ra hướng phát triển mới trong nông nghiệp, Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết trung ương 10 về quản lý nông nghiệp với nội dung khoán mới đó là việc khoán hộ (vì vậy mà chúng ta vẫn quyen gọi là chính sách khoán hộ là "khoán 10").
Ở Xuân Minh với việc thực hiện chính sách khoán hộ mà từ năm 1988 trở đi tình hình sản xuất nông nghiệp nói riêng và tình hình kinh tế - xã hội nói chung đã có sự chuyển biến rõ rệt, nhanh chóng rất đáng mừng. Từ đây, trên mảnh đất được giao, người nông dân mới thực sự được phát huy quyền làm chủ của mình để lao động sản xuất một cách nhiệt tình với hiệu quả cao nhất. Nhờ chính sách này mà hộ nông dân nắm quyền chủ động trong tất cả các khâu sản xuất (từ cày bừa, gieo cấy, giống, phân đến thu hoạch ....) và tiêu thụ sản phẩm, còn hợp tác xã nông nghiệp chuyển dần sang mô hình hợp tác xã dịch vụ, phục vụ các yêu của nông dân trên cở sở thoả thuận và ký kết hợp đồng. Còn việc điều hành sản xuất và thu thuế đất là nhiệm vụ của chính quyền xã.
Trong bước chuyển đổi mới của mình, hợp tác xã dịch vụ xã Xuân Minh đã từng bước phát huy được vai trò của mình trong việc xây dựng kế hoạch bám sát thời vụ, hướng dẫn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi và cung ứng kịp thời giống, phân bón, vật tư, nguyên liệu thiết yếu cho nông dân, đồng thời làm tốt nhiệm vụ điều tiết nước và tưới tiêu hiệu quả trên khắp các xứ đồng v.v..
Đến năm 1993, thực hiện Chỉ thị 02/ CT- TU của trung ương về việc giao đất lâu dài cho nông dân, Đảng uỷ và chính quyền xã Xuân Minh đã chỉ đạo chặt chẽ việc đo đạc ruộng đất, phân mảnh định hạng chuẩn xác để phân chia ruộng đất cho các hộ theo nhân khẩu một cách công bằng trên tinh thần có gần, có xa, có xấu, có tốt. Tuy nhiên, đối với hộ chính sách có khó khăn thì trong lúc phân chia, xã cũng có sự ưu tiên hơn các hộ bình thường khác. Từ đây, hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế độc lập. Tất cả mọi ruộng đất ao hồ, đồng bãi đựơc giao quyền sử dụng lâu dài, hộ nông dân vẫn có quyền chuyển nhượng, thuê khoán và sản xuất một cách hoàn toàn chủ động. Nhờ đó mà đã giải phóng được sức sản xuất và phát huy vai trò làm chủ của các hộ nông dân trong mở mang sản xuất tuỳ theo trình độ, khả năng cho phép. Với việc phân chia ruộng đất lâu dài cho nông dân và việc đem khoán thầu của các khu vực đất hoang hoá, hoặc các diện tích mặt nước chưa được phát huy đã mở ra thời kỳ phát triển các trang trại trồng trọt, chăn nuôi,hoặc mô hình vườn- ao- chuồng một cách hiệu quả ở các làng trong xã.
Sau những năm thực hiện chính sách khoán hộ và giao đất lâu dài cho nông dân, tình hình sản xuất và kinh tế xã hội của xã Xuân Minh có sự chuyển biến rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc giao đất cho nông dân còn bộc lộ sự manh mún, phân tán, gây khó khăn trở ngại đến việc đầu tư thâm canh, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và thực hiện các tiến bộ khoa học kỹ thuật v.v... Ngoài ra, việc chia đất manh mún còn làm cho việc quản lý và khai thác theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ rất khó thực hiện.
Để khắc phục tình trạng trên, từ tháng 7 năm 1998, sau một thời gian ngắn có 3 tháng, cuộc vận động đổi điền, dồn thửa theo tinh thần Chỉ thị số 11 của huyện uỷ Thọ Xuân (ký ngày 25 tháng 6 năm 1998) ở Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành. Thực chất, đây là cuộc vận động cách mạng sâu rộng không phải mấy dễ dàng, nhưng với kết quả thu đựơc đã tạo ra những điều kiện thuận lợi phát huy nội lực và khai thác tối đa tiềm năng lao động đất đai để phát triển sản xuất theo xu hướng công nghiệp hoá, hiệnđại hoá. Toàn xã từ trên 2500 thửa, đến nay còn lại 2146 thửa (giảm được gần 1/2 thửa so với trước). Điều đó có tác dụng khắc phục được rất nhiều tình trạng phân tán và manh mún trong sản xuất, đồng thời tạo ra điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình đầu tư thâm canh và phát huy tiềm năng đất đai một cách ổn định, lâu dài hơn.
Như vây, từ năm 1996 đến 2000, do nhận thức đầy đủ các chủ trương chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước và biết vận dụng sáng tạo, phù hợp vào điều kiện thực tế của địa phương, Đảng bộ Xuân Minh đã lãnh đạo chính quyền và nhân dân trong xã thực hiện một cách có hiệu quả việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tại chỗ, rồi từng bước vươn ra thị trường trong, ngoài huyện và đẩy mạnh khai thác tối đa tiềm năng lao động, đất đai để tạo ra nguồn lực phát triển một nền kinh tế nông nghiệp toàn diện, vững chắc. Trong những năm này (1996- 2000), sản xuất nông nghiệp đã có những tiến bộ khá toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi và trồng cây công nghiệp (như mía) để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đường Lam Sơn.
Do biết tận dụng khai thác tiềm năng đất đai, lao động, vật tư, tiền vốn đến việc tích cực vận dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị thu nhập cao mà sự thu nhập kinh tế của Xuân Minh trên lĩnh vực sản xuất đều tăng tiến nhanh chóng. Riêng tổng sản phẩm lương thực quy ra thóc bình quân trong 5 năm (từ năm 1996- 2000) đã đạt tới mức 2593 tấn/ năm ( tăng 11,3% so với mức bình quân giai đoạn 1990- 1995). Còn về chăn nuôi, tổng đàn lợn lúc này cũng đạt bình quân 1666 con/ năm (tăng 10,5% so với 5 năm trước). Riêng về trâu bò cũng đạt bình quân 435 con/năm. Ngoài ra, sản lượng cá và các loại gia cầm khác cũng đều tăng so với trước.
Đến năm 2000, lĩnh vực công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dich vụ mua bán ở Xuân Minh cũng phát triển đa dạng (như mộc dân dụng, cơ khí sửa chữa, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản và thức ăn gia súc cùng sự hình thành một số tụ điểm dịch vụ mua bán v.v...) đã tạo điều kiện cho sự chuyển dịch kinh tế ở từng làng và ở nhiều hộ gia đình, góp phần giải quyết việc làm và năng cao mức sống cho người lao động.
Nhìn chung, từ năm 1996- đến 2000, nền kinh tế của Xuân Minh đã thực sự đi vào thế ổn đinh, tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 7,5% GDP bình quân đầu người năm 1995 đạt 123,6 USD, năm 1999 đạt 155,2 USD. Tổng sản lượng quy thóc tăng 11,5% so với mức bình quân thời kỳ 1991 - 1995. Ngoài việc đảm bảo nhu cầu lương thực và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, mỗi năm Xuân Minh có 1000 tấn lương thực hàng hoá được lưu thông trên thị trường trong, ngoài huyện. Tổng thu ngân sách nhà nước thời kỳ 1996 - 2000 tăng gấp 3,2 lần so với 5 năm trước.
Trong những năm qua, do biết huy động được nhiều nguồn vốn và công sức của nhân dân, đồng thời biết tranh thủ được nhiều nguồn vốn hỗ trở của các ngành, các cấp từ huyện trở lên, hệ thống điện - đường- trường- trạm và các công trình hạ tầng cở sở nói chung đã được đầu tư xây dựng khá nhiều (như xây dựng trạm bơm Thiên Lộc, nâng cấp phối đường Lê Hoàn, đường các thôn Quang Trung, Vinh Quang, bê tông hoá đường thôn Thuần Hậu, kiên cố hoá kênh mương, xây dựng trạm xá và trường mầm non, nhà văn hoá và khu làm việc của xã v.v...).
Do kinh tế phát triển mà đến năm 2005, ở Xuân Minh, số hộ có mức sống trung bình trở lên chiếm 85%, số hộ có nhà bê tông kiên cố là 195 hộ, nhà tranh che tạm bợ đã hoàn toàn xoá sổ, 100% số hộ được sử dụng điện sáng. Cả xã có 15 ôtô và xe công nông, 25 hộ có máy cày bừa phục vụ sản xuất, 872 hộ có máy thu hình, 347 hộ có xe máy,230 hộ có điện thoại.
Như vậy, từ năm 1986- 2009, sau 23 năm gia sức phấn đấu thành công trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh đã thu được nhiều thành tựu rất đáng kể:
- Thành tựu kinh tế:
Đến năm 2008, tổng thu nhập GDP của xã đạt ở mức 37 tỷ đồng ( trong đó nông lâm nghiệp chiếm 55%, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ 25% và dịch vụ khác 20%). Bình quân đầu người trong thời điểm từ 2005- 2009 đạt 7 triệu đồng/ năm. Tổng sản lượng quy thóc phấn đấu ổn định ở mức 3500 tấn/ năm. Riêng sản lượng mía nguyên liệu ổn định hàng năm từ 3600 - 4000 tấn. Giá trị sản xuất/ ha canh tác bình quân từ 30 triệu đồng trở lên. Có nhiều cánh đồng đã đạt từ mức 40 - 50 triệu đồng/ ha.
Về chăn nuôi, năm 1995 tổng đàn trâu bò của xã là 900 con, đến năm 2008 đã tăng lên trên 2000 con, bình quân mỗi hộ đã nuôi từ hai con trở lên. Trong những năm từ 2005- 2009, ngoài việc củng cố phát triển đàn gia súc, việc phát triển đàn gia cầm cũng rất được chú trọng theo hướng bán công nghiệp để phấn đấu đến năm 2010 đưa giá trị chăn nuôi tăng gấp 3 lần so với năm 2005.
Trong 10 năm trở lại đây (2000- 2009), bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều đạt 10% trở lên. Việc thu ngân sách hàng năm cũng tăng bình quân hơn 5%/ năm.
Về xây dựng: đã kiên cố hoá đường giao thông liên thôn và bê tông hoá xong hệ thống đường ở các thôn, xóm. Do biết tập trung nguồn vốn, nên đến năm 2009 đã xây dựng xong khu trường mầm non và bổ sung, nâng cấp cở sở vật chất trường trung học cở sở đạt yêu cầu chuẩn quốc gia. Ngoài ra, xã còn đầu tư nâng cấp khu công sở để đảm bảo nơi làm việc cho bộ máy Đảng, chính quyền và khối đoàn thể mặt trận nói chung.
Do kinh tế có sự phát triển vượt bậc mà trong những năm qua tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn mới) mỗi năm đã giảm từ 2- 3%. Đến năm 2009, số hộ nghèo còn hơn 4%.
So với thời kỳ trước đổi mới, bộ mặt của các làng xóm và xã nói chung đã có sự đổi thay to lớn. Giờ đây, mỗi khi đi xa về, bất kỳ ai cũng đều cảm nhận rõ ràng rằng quê nghèo Xuân Minh xưa kia giờ đây đã là vùng nông thôn hiện đại, khang trang với đầy đủ hệ thống hạ tầng cơ sở điện đường - trường - trại và nhà cửa kiên cố mọc lên liên tiếp theo quy hoạch dọc, ngang thẳng tắp. Công cuộc đổi điền, dồn thửa lần hai trong năm 2009 này đã thành công (từ 5280 thửa năm 1998 dồn lại chỉ còn 2146 thửa), mở ra một hướng sản xuất thâm canh và khai thác đất đai của toàn xã càng trở nên hiệu quả. Các phương tiện cơ giới có thể đi được từ xứ đồng này đến xứ đồng khác nhờ có sự mở rộng kiên cố hoá đường kênh mương, nội đồng....
Với đà này, chỉ trong vài năm tới, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Xuân Minh chắc chắn sẽ còn gặt hái được nhiều thành tựu to lớn và đáng kể hơn nữa.
- Thành tựu về văn hoá - xã hội:
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ( 1986- 2009), bên cạnh những thành tựu về kinh tế, Xuân Minh còn có những tiến bộ vượt bậc trên lĩnh vực văn hoá xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới, mặc dù còn rất nhiều bất cập, khó khăn về vật tư, tiền vốn, nhưng vì có sự nhận thức đúng xem giáo dục là quốc sách hàng đầu để tiến hành thành công đường lối đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng bộ, chính quyền xã Xuân Minh vẫn dành sự ưu tiên số một cho việc đầu tư nâng cấp các hệ thống trường, lớp cùng trang thiết bị phục vụ việc dạy và học trong trường. Nhờ đó mà đến nay, hệ thống trường phổ thông ( cấp I, cấp II) và nhà trẻ mẫu giáo đã hoàn thiện, nâng cấp cả về quy mô, hình thức theo hướng chuẩn quốc gia. Toàn xã đã cơ bản hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù trong độ tuổi. Hàng năm tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp các cấp đều tăng lên trông thấy. Số học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh và số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp mỗi năm một nhiều hơn. Tính đến nay, toàn xã Xuân Minh đã có hơn 300 người có trình độ đại học và trên đại học hiện đang công tác trên khắp mọi miền đất nước. Nhiều học sinh từ mái trường Xuân Minh ra đi, nhờ học hành đỗ đạt và công tác tốt đã trưởng thành và giữ nhiều trọng trách trong xã hội, làm vẻ vang cho đất nước quê hương.So với nhiều vùng quê trong huyện, thì Xuân Minh luôn là nơi được đánh giá là có truyền thống hiếu học. Mặc dù trong thời buổi cơ chế thị trường, nhưng "đạo lý tôn sư trọng đạo" và quan hệ giữa nhà trường với gia đình và xã hội vẫn được phát huy một cách tốt nhất. Chính nhờ đó mà trong thời gian qua, ngành giáo dục ở Xuân Minh đã có sự tiến bộ vượt bậc. Các trường tiểu học, trung học cơ sở và trường mầm non trong thời gian qua liên tiếp được công nhận là trường tiên tiến cấp huyện. Riêng trường tiểu học đã được cấp trên công nhận là trường chuẩn quốc gia trong giai đoạn từ năm 2000 - 2005.
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII về việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở Xuân Minh đã liên tục phát động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới ở tất cả các làng. Trong giai đoạn từ 2000- 2005, Xuân Minh đã khai trương được 3 làng văn hoá (gồm Ngọc Trung, Quang Hoa, Thiên Lộc) và một cơ quan văn hoá là trường tiểu học, đồng thời làm thủ tục đề nghị công nhận một làng văn hoá cấp tỉnh, 1 làng văn hoá cấp huyện. Cho đến nay đã có 6/6 làng đều khai trương xây dựng làng văn hoá, trong đó có 2 làng đựoc công nhận làng văn hoá cấp tỉnh và 1 làng được công nhận làng văn hoá cấp huyện. Nhờ đó chương trình xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được chú trọng thường xuyên, cho nên nếp sống văn minh trong sinh hoạt, cưới xin, tang lễ, hội họp có nhiều chuyển biến rất tích cực. Hàng năm, số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá chiểm từ 70- 80%.
Thời kỳ này, do kinh tế phát triển nên hoạt động văn nghệ và thể dục thể thao được duy trì và hoạt động rất sôi nổi. Riêng về thể dục thể thao, xã đã thành lập đụơc câu lạc bộ bóng bàn, cầu lông, bóng chuyền, bóng đá và hai đội thể dục dưỡng sinh cho người cao tuổi (ở thôn Phong Cốc và Vinh Quang). Hiện tại đã có 6/6 thôn có trung tâm văn hoá, 5/6 thôn có sân vận động bóng đá, bóng chuyền, cầu lông. Nhìn chung, cơ sở thể dục thể thao đựơc tăng cường đều khắp. Công tác giáo dục thể chất trong nhà trường cũng được coi trọng và chú ý thường xuyên.
Về lĩnh vực y tế , dân số và kế hoạch hoá gia đình là một tiến bộ nổi bật ở Xuân Minh. Trong những năm qua, công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đựơc quan tâm cải thiện không ngừng. Mạng lưới y tế từ xã đến thôn đựơc củng cố tăng cường đã phát huy tốt công tác khám và điều trị thông thường, đồng thời thực hiện đầy đủ các chương trình y tế quốc gia, tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, vệ sinh môi trường v.v... Nhờ đó mà đã hạn chế và ngăn chặn kịp thời các loại dịch bệnh. Trạm xá xã với cơ ngơi đầy đủ và lực lượng bác sĩ, y sĩ , y tá, nữ hộ sinh đúng tiêu chuẩn đã trở thành một trung tâm y tế đáng tin cậy của nhân dân. Hiện nay, trạm xá xã cũng được công nhận là đơn vị chuẩn quốc gia. Về dân số, do công tác truyền thông triển khai tích cực và hiệu quả nên đã làm ổn định việc tăng dân số tự nhiên hàng năm ở trong xã chỉ ở mức từ 0,7- 0,8%
Bên cạnh thành tích về giáo dục, văn hoá-thể thao và y tế, xã cũng có nhiều tiến bộ về việc thực hiện tốt các chính sách xã hội và xoá đói giảm nghèo. Việc chi trả các chế độ và quan tâm thăm hỏi các gia đình có công với cách mạng, các gia đình thương binh, liệt sỹ và các đối tượng chính sách khác là những việc rất được lãnh đạo xã chú trọng thực hiện một cách đầy đủ và không có gì đáng tiếc xảy ra. Các hoạt động xoá đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa và giúp đỡ thiết thực đối với các đối tượng khó khăn đặc biệt, hoặc quan tâm động viên đối với những học sinh nghèo vượt khó v.v.....đều là những hoạt động tích cực mang tính nhân văn tốt đẹp ở Xuân Minh trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Thành tựu về an ninh - quốc phòng
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá từ 1986 đến nay, công tác an ninh, quốc phòng ở Xuân Minh vẩn luôn được chú trọng một cách đặc biệt. Nhờ đó mà địa phương luôn giữ được thế ổn định để phát triển.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, xã Xuân Minh đã cương quyết đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, các hành vi đi ngược với pháp luật để bảo vệ an nịnh tại địa phương. Trong quá trình thực hiện chủ trương bảo vệ an ninh Tổ quốc, an ninh nông thôn, xã đã rất chú trọng đến việc cũng cố xây dựng lực lượng công an nhân dân và hệ thống tổ dân cư tự quản, nhờ đó kịp thời phát hiện, xử lý ngăn chặn các hành vi phạm pháp, tiêu cực diễn ra tại địa bàn. Với những hoạt động và đóng góp tích cực trong việc đảm bảo trật tự an ninh tại địa phương mà lực lượng công an xã đã mấy lần được công nhận danh hiệu là đơn vị quyết thắng.
Về công tác quốc phòng, xã cũng rất chú trọng đến việc củng cố xây dựng, tổ chức lực lượng quốc phòng và khu vực phòng thủ vững chắc phù hợp với điều kiện địa phương để sẵn sằng đối phó với bầt kỳ tình huống xấu nào xảy ra. Trong nhiều năm qua, do làm tốt công tác tư tưởng trong lực lượng thanh niên mà công tác nghĩa vụ quân sự của Xuân Minh luôn hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu kế hoạch được giao. Giữ vũng truyền thống của quê hương cách mạng, tất cả mọi quân nhân người Xuân Minh đều ra sức phấn đấu để xứng danh là bộ đội cụ Hồ. Từ năm 1986 đế nay, trong xã không có trường hợp nào đào ngũ và chốn tránh nghĩa vụ. Với thành tích đã đạt được, Xuân Minh đã vinh dự được huyện, tỉnh khen thưởng và công nhận là địa phương có phong trào hoạt động quân sự tốt.
- Những thành tựu trong cống tác củng cố, xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá (1986 - 2009), mặc dù trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp nhưng toàn thể Đảng viên trong Đảng bộ Xuân Minh vẫn kiên định lập trường theo đường lối mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Qua thực tiễn hoạt động, Đảng bộ Xuân Minh đã đóng góp vai trò hết sức quan trọng, góp phần quyết định mọi thắng lợi trong xã, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Tuy nhiên, con đường đi lên của Đảng bộ Xuân Minh trong thời kỳ đổi mới, côngnghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn không phải lúc nào cũng dễ dàng, bằng phẳng, mà liên tục gặp những khó khăn, thử thách. Có lúc trong nội bộ phát sinh những mâu thuẫn và mất đoàn kết kéo dài. Thậm chí như khoá Đảng bộ giai đoạn từ 2000- 2005, do kiện cáo về việc chia, bán đất, một số cán bộ chủ chốt trong Đảng bộ đã bị thanh tra, kiểm điểm mà hậu quả cho đến nay vẫn còn phải tiếp tục tháo gỡ. Nhưng với truyền thống đoàn kết nhất trí của một vùng quê cách mạng, Đảng bộ Xuân Minh đã kiên quyết đấu tranh loại bỏ những biểu hiện tiêu cực đi ngược lại với quyền lợi của toàn thể cán bộ, Đảng viên và nhân dân trong xã để làm cho Đảng bộ xứng đáng với danh hiệu là Đảng bộ trong sạch, vũng mạnh. Trong thời gian từ cuối năm 1985- 2009, Đảng bộ Xuân Minh đã trải qua 7 kỳ Đại hội như:
+ Đại hội khoá 1985- 1987 (tổ chức vào tháng 11 năm 1985, do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu làm Bí thư )
+ Đại hội khoá 1987- 1991 (tổ chức vào thang 6 - 1987, do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu làm Bí thư)
+ Đại hội khóa 1991- 1994 (tổ chức vào tháng 3 năm 199, do đồng chí Trịnh Văn Đảm làm Bí thư )
+ Đại hội khoá 1994- 1996 (tổ chức tháng 6 năm 1994, do đồng chí Trịnh Văn Đảm làm Bí thư )
+ Đại hội khoá 1996- 2000 (tổ chức vào tháng 1 năm 1996, do đồng chí Trịnh Văn Đảm làm Bí thư)
+ Đại hội khoá 2000- 2005 (tổ chức vào tháng 10 năm 2000, do đồng chí mai Văn Tôn làm Bí thư)
+ Đại hội khoá 2005- 2010 (tổ chức vào tháng 8 năm 2005, do đồng chí Nguyễn Văn Lương làm bí thư)
Trong suốt 7 khoá đại hội nêu trên, Đảng bộ Xuân Minh đều rất kiên định lập trường theo đường lối đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá của Đảng, đồng thời biết vận dụng đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng một cách sáng tạo và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của địa phương trên cơ sở phát huy tối đa thế mạnh về nguồn lực lao động, đất đai sẵn có để từng bước đưa xã nhà từ chỗ còn nhiều khó khăn bất cập thành một địa phương có nền kinh tế phát triển mỗi ngày một toàn diện, vững chắc hơn. Trong quá trình đó, Đảng bộ đã biết gắn kết giữa công cuộc đổi mới công nghiệp hoá - hiện đại hoá với việc củng cố, phát triển Đảng. Ngoài việc tăng cường hiệu lực và chất lượng hoạt động của Đảng uỷ, công tác củng cố các chi bộ cơ sở cũng được xác định là nhiệm vụ rất quan trọng để làm tăng cường sức chiến đấu của Đảng bộ. Đáp ứng với sự đòi hỏi ngày một cao trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng bộ cũng rất chú trọng việc nâng cao trình độ, nhận thức của cán bộ, Đảng viên trên cơ sở tăng cường học tập lý luận và chuyên môn nghiệp vụ trên tất cả mọi lĩnh vực (như giai đoạn 2000- 2005, Đảng uỷ đã cử ra 6 đồng chí tham gia học trung cấp lý luận chính trị, 4 đồng chí học trung cấp quản lý nhà nước, 2 đồng chí đi học Đại học nông nghiệp, 1 đồng chí học trung cấp quân sự, 1 đồng chí học văn phòng, 2 đồng chí học trung cấp pháp lý, 1 đồng chí học trung cấp địa chính v.v....). Nhờ đó mà đến nay, bộ máy Đảng uỷ, uỷ ban nhân dân, đội ngũ cán bộ chuyên trách và công chức đã cơ bản được chuẩn hoá theo quy định của trên.
Trong những năm qua, công tác chính trị - tư tưởng được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của toàn Đảng bộ. Ngoài việc liên tục cho toàn thể cán bộ, Đảng viên học tập lý luận, chính trị để nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng uỷ còn làm cho mọi cán bộ, đảng viên phải quán triệt đầy đủ sâu sắc mọi chỉ thị, nghị quyết của Đảng để làm cho Đảng bộ có thêm sức mạnh thực hiện thành công công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Từ việc được giáo dục, rèn luyện nâng cao năng lực phẩm chất chính trị một cách thường xuyên mà đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Xuân Minh luôn luôn đầu tầu gương mẫu trong mọi phong trào và ngày càng đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.
Thời gian qua, nhờ việc thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ thông qua phê bình và tự phê bình mà đã tạo ra đựơc sự thống nhất về tư tưởng, hành động trong toàn Đảng bộ, góp phần ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên nên mới giữ vững được kỷ cương, kỷ luật, nâng cao vai trò và sức chiến đấu của tổ chức Đảng.Vai trò của Đảng uỷ, chi uỷ cũng đựơc nâng lên để gánh vác các nhiệm vụ mà Đảng bộ giao phó. Nhờ sự cố gắng không ngừng của tất cả mọi cán bộ, Đảng viên mà đến năm 2004, trong Đảng bộ Xuân Minh không còn chi bộ nào là yếu kém. Cũng trong năm này, Đảng bộ Xuân Minh đã vinh dự đựợc ban thường vụ tỉnh uỷ tặng bằng khen về thành tích luôn đạt là Đảng bộ trong sạch và vững mạnh.
Bên cạnh những nhiệm vụ trọng tâm, Đảng bộ Xuân Minh cũng rất chú ý, quan tâm đến việc phát triển Đảng. Chỉ riêng từ năm 2000- 2005, tất cả các chi bộ đã bồi dưỡng được 42 quần chúng ưu tú và chọn lựa kết nạp được 32 Đảng viên mới.
Hiện nay (2009), toàn bộ Đảng bộ Xuân Minh có 313 đảng viên, sinh hoạt trong 9 chi bộ (gồm 6 chi bộ nông thôn và 3 chi bộ nhà trường). So với các thời kỳ trước thì đây là thời kỳ mà hệ thống tổ chức cơ sở đảng ở Xuân Minh có sự phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh những đảng viên đã được tôi luyện, thử thách qua nhiều thời kỳ công tác, Đảng bộ còn bổ sung đựơc nhiều đảng viên trẻ có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. Vì vậy mà sức chiến đấu của Đảng bộ ngày càng được phát huy hơn.
Có thể nói, trong 23 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn (1986- 2009), Đảng bộ Xuân Minh đã có sự trưởng thành vượt bậc và liên tiếp gặt hái được những thành công đáng kể trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội và an ninh - quốc phòng. Qua thực tiễn, Đảng bộ thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy cảu chính quyền, đoàn thể và nhân dân. Là một xã trước thời kỳ đổi mới còn nhiều khó khăn, bất cập, nhưng nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ mà cho đến nay, Xuân Minh đã có sự tiến bộ vượt bậc toàn diện so với trước. Chính sự quyết tâm của Đảng bộ trong việc lãnh đạo toàn dân thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu trồng trọt, vật nuôi và phát triển đồng bộ, hợp lý giữa trồng trọt, chăn nuôi với ngành nghề, dịch vụ, thương mại cùng sự mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất mà đã vực dậy nền kinh tế địa phương một cách nhanh chóng, làm cho đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân được cải thiện không ngừng gấp nhiều lần so với thời điểm trước năm 1986.
Bên cạnh hệ thống tổ chức Đảng mỗi ngày một vững mạnh, Xuân Minh còn một bộ máy chính quyền từ xã đến thôn, xóm cũng rất nhiệt tình năng động, đã có đóng góp đáng kể trong việc quản lý, điều hành kinh tế, xã hội tại địa phương. Trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nhiều cương vị chủ chốt đựoc trẻ hoá đã tỏ rõ năng lực công tác và nhiệt tình cách mạng trước nhân dân.
Trong thời gian qua, ngoài sự điều hành của chính quyền xã, vai trò của trưởng thôn, trưởng xóm cũng góp một phần quan trọng đến việc đôn đốc, điều hành các phong trào cơ sở. Thời kỳ đổi mới mở của và cơ chế thị trường, bộ máy chính quyền xã cũng có nhiều cố gắng tích cực trong việc tìm hướng liên doanh, liên kết, đầu vào, đầu ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời khuyến khích các hộ nông dân tự huy động vốn để phát triển ngành nghề, dịch vụ, thương mại, hoặc phát triển kinh tế vườn - ao - chuồng và cánh đồng 50 triêu đồng/ 1 ha v.v... Ngoài ra, chính quyền còn biết khai thác nguồn vốn hỗ trợ của các ngành, các cấp và sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở điện- đường - trường- trạm và thuỷ lợi nói chung. Việc quản lý đất đai, đổi điền dồn thửa, định hướng quy hoạch sản xuất để thực hiện thâm canh, chuyên canh theo hướng hiện đại hoá cũng là nét nổi bật trong hoạt động của bộ máy chính quyền ở đây. Bên cạnh việc điều hành tốt nhiệm vụ kinh tế, sản xuất, bộ máy chính quyền của Xuân Minh còn rất tích cực trong việc thực hiên an ninh, quốc phòng. Nhờ đó mà tình hình trật tự, trị an ở các làng trong xã luôn ổn định, vững chắc. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, một vài cán bộ chủ chốt của xã cũng đã mắc những sai lầm về quản lý và chia, bán đất đai, gây kiện cáo kéo dài (như thời điểm 2005), nhưng đây cũng chỉ là hiện tượng cá biệt được tháo gỡ, xử lý, ngăn chặn kịp thời nên hậu quả không thực sự nghiêm trọng và đáng tiếc như nhiều địa phương khác.
Phối hợp hỗ trợ cùng Đảng uỷ, chính quyền là hệ thống đoàn thể mặt trận, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh v.v... cũng rất tích cực hoạt động và tỏ rõ là lực lượng đầu tàu, gương mẫu đi đầu các phong trào quần chúng trong thời kỳ đổi mới, đồng thời đã tỏ rõ vai trò tích cực trong việc động viên mọi tầng lớp quần chúng thực hiện đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước để góp phần thiết thực vào sự phồn vinh của quê hương, đất nước. Riêng tổ chức mặt trận tổ quốc đã có nhiều đóng góp tích cực cho việc tăng cường khối đại đoàn kết trong xã. Tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thực sự là lực lượng hậu bị và cánh tay phải của Đảng đã đi đầu trong mọi phong trào, nhất là phong trào làm kinh tế giỏi và giám gánh vác những công việc trọng trách, khó khăn mà Đảng bộ và nhân dân giao phó. Từ các phong trào kinh tế, văn hoá - xã hội và an ninh quốc phòng, nhiều thanh niên đã được rèn luyện, thử thách và vinh dự được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng v.v....
Như vây, trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, với sự cũng cố và phát triển đồng bộ hệ thống đảng, chính quyển, đoàn thể, mặt trận và các tổ chức quần chúng mà đã tạo nên động lực và yếu tố quyết định cho xã Xuân Minh từng bước tiến lên một cách toàn diện, vững chắc. Giờ đây, với những gì đã đạt được, nhất định Xuân Minh sẽ còn tiến mạnh tiến xa trong thời kỳ đi tiếp.
CHƯƠNG 6
TIẾP TỤC SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, XUÂN MINH ĐÃ GẶT HÁI ĐƯỢC NHIỀU THÀNH CÔNG ĐÁNG KỂ (2010-2023)
I. PHÁT HUY CAO ĐỘ NỘI LỰC, TRANH THỦ CÓ HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC BÊN NGOÀI, TIẾP TỤC ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI XÂY DỰNG XÃ NÔNG THÔN MỚI (2010-2015)
Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 04 tháng 8 năm 2009 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 40-KH/TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 01năm 2011, Đảng bộ xã Xuân Minh tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2010-2015.
Báo cáo chính trị trình Đại hội nêu rõ: Trong nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng bộ và Nhân dân trong xã cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ, một số mục tiêu vượt so với Đại hội đề ra Đại hội cũng đã chỉ rõ những tồn tại khuyết điểm: Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi còn chậm, một bộ phận cán bộ, đảng viên, Nhân dân có tư tưởng bảo thủ, chưa phát huy hết tiềm năng đất đai, lao động hiện có phát triển kinh tế ở địa phương chủ yếu vẫn thuần nông, độc canh
Sau khi thảo luận, Đại hội nhất trí thông qua Báo cáo chính trị, báo cáo kiểm điểm của Ban chấp hành, các báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia vào dự thảo các văn kiện của Trung ương, của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVI trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu nhiệm kỳ 2010-2015 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nhanh nhất có hiệu quả nhất các nguồn lực bên ngoài, đẩy nhanh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất phục vụ đời sống, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy tối đa nguồn lực con người, nâng cao chất lượng giáo dục, các hoạt động văn hoá theo hướng xã hội hoá, kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế xã hội với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, củng cố giữ vững quốc phòng an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng tổ chức Đảng, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh .
Đại hội xác định các mục tiêu chủ yếu về kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị. Đại hội đề ra những giải pháp và xác định 4 chương trình trọng tâm: 1. Xây dựng trường Mầm non, Trường Trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia; 2. Xây dựng 2 đến 3 thôn đạt tiên chí nông thôn mới; 3. Xây dựng nâng cấp khu công sở; 4. Bê tông hoá 70% đường mương nội đồng.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồn 13 đồng chí. Trong phiên họp thứ nhất, Ban chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 3 đồng chí. Đồng chí Đỗ Huy Chân được bầu làm Bí thư Đảng uỷ; đồng chí Nguyễn Văn Sơn và Võ Văn Quang được bầu làm Phó Bí thư (đồng chí Nguyễn Văn Sơn được phân công phụ trách chính quyền và đồng chí Võ văn Quang làm Thường trực Đảng uỷ).
Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2010-2015 trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Về thuận lợi: Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách phát triển kinh tế, xã hội nhất là các chính sách về an sinh xã hội, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh. Đặc biệt chủ trương xây dựng nông thôn mới và cơ chế chính sách xây dựng nông thôn mới đã tác động mạnh đến tư tưởng cán bộ, đảng viên cũng như các tầng lớp Nhân dân. Bên cạnh đó, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn ổn định đã tạo được sự bình yên trong các khu dân cư, niềm tin của các tầng lớp Nhân dân vào chủ trương đường lối của Đảng ở địa phương ngày càng được tăng cường.
Khó khăn: Thời gian này tình hình lạm phát vẫn tăng cao, giá cả thị trường không ổn định, nguồn đầu tư công giảm, giá đầu ra của các sản phẩm nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp thấp; dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp; bảo lụt, nắng nóng diễn biến bất thường là những nhân tố ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Trong bối cảnh như vậy, nhưng Đảng bộ và Nhân dân trong xã không quản ngại khó khăn, thử thách đồng sức, đồng lòng phát huy nguồn nội lực sẵn có của quê hương đó là truyền thống của một vùng quê cách mạng đã phấn đấu thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra trên tất cả các lĩnh vực.
1. Về phát triển kinh tế
Để tạo thế và lực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã xác định phải tạo ra sự đột phá ngay từ tháng đầu, năm đầu với tinh thần là cải thiện quan nệ, thu hút đầu tư. Năm 2011, Đảng uỷ lãnh đạo Nhân dân tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, mùa vụ, tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từng bước làm cơ sở cho các thôn phát triển nâng cao sản xuất, sản lượng hiệu quả. Năm 2012, Ban chấp hành Đảng bộ huyện ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HU về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thọ Xuân giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2025, Đảng uỷ đã chủ động tăng cường công tác tuyên truyền, vận động làm chuyển biến sâu sắc nhận thức, hành động của các tổ chức chính trị, xã hội và các tầng lớp Nhân dân trong đổi mới và phát triển các hình thức sản xuất nhằm tạo khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp tháng 4 năm 2013 HTX Dịch vụ nông nghiệp xã Xuân Minh được thành lập đã tập trung tuyên truyền vận động nhân dân tích tụ ruộng đất từng bước hình thành cánh đồng mẫu lớn tạo điều kiện thuận lợi cho cơ giới hóa đồng bộ thực hiện việc liên doanh, liên kết sản xuất, chuyển giao ứng dụng khoa học kỷ thuật, vật tư nông nghiệp và bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Năm 2015, Ban chấp hành Tỉnh uỷ ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TU về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trong đó, Nghị quyết chỉ rõ: phải đột phá về tổ chức sản xuất, đột phá về ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đột phá về chất lượng sản phẩm trong nông nghiệp và đột phá về đầu tư về nông nghiệp, nông thôn
Vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng cấp trên vào điều kiện cụ thể của địa phương, Đảng uỷ đã chỉ đạo triển khai thực hiện với nhiều giải pháp thiết thực. Vì vậy kinh tế của xã đã có bước tăng trưởng rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng hằng năm bình quân 15,5% (vượt 2,5% so với Nghị quyết Đại hội); cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng Nông nghiệp 35,9%; Tiểu thủ công nghiệp xây dựng 26%; Dịch vụ, thương mại 38,1%. Bình quân thu nhập đầu người, đến năm 2015 đạt 19,16 triệu đồng (năm 2014 đạt 18,9 triệu đồng). Tổng sản lượng lương thực hàng năm bình quân 3.200 tấn; tổng sản lượng mía nguyên liệu đạt 5.525 tấn (năm 2015). Tổng đàn trâu bò, bình quân 600 con/năm; tổng đàn lợn đạt 2.500 con. Bình quân lương thực đầu người đạt 650kg/năm. Trong 5 năm xã đã chuyển đổi 30ha diện tích lúa, màu năng xuất thấp sang trồng các cây công nghiệp năng xuất, hiệu quả cao. Đồng thời Đảng uỷ đã lãnh đạo thực hiện tốt việc đổi điền dồn thửa, quy hoạch 80% diện tích lúa vào vùng thâm canh, quy hoạch hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng, đã xây dựng bê tông hoá 3,5km giao thông và 6,2km mương nội đồng trị giá gần 2 tỷ đồng. Xã đầu tư mua thêm 6 máy gặt đập liên hợp, 60 máy làm đất. Đến năm 2015, 100% diện tích đất nông nghiệp, 80% diện tích lúa thu hoạch đã được cơ giới hoá. Xã thành lập hợp tác xã cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, làm mạ khay, máng cấy phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao góp phần nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho lao động nông thôn, cải thiện đời sống cho Nhân dân, xoá bỏ dần các thói quen sản xuất lạc hậu.
Thời gian này, lĩnh vực chăn nuôi tiếp tục được Trung ương, tỉnh, huyện quan tâm thông qua nhiều cơ chế, chính sách phát triển chăn nuôi. Vì vậy, mặc dù giai đoạn 2005-2010, chăn nuôi không phát triển được, nhưng đến thời điểm này Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã đẩy mạnh chăn nuôi gia đình, nhất là tạo điệu kiện cho các hộ xây dựng các trang trại tổng hợp. Đến năm 2015, toàn xã vẫn đạt tổng đàn lợn 1.800 con; đàn gia cầm 30.000 con. Xã quy hoạch vùng đất ven sông Cầu Chày xây dựng 7 trang trại tổng hợp, 2 trang trại quy mô lớn. Chăn nuôi trang trại, gia trại trong các khu dân cư vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong các hộ nông nghiệp.
Về sản xuất các ngành nghề và xây dựng cơ bản: Xã đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho một số ngành nghề phát triển như nghề mộc, nề, hàn xì, kinh doanh dịch vụ, xay sát chế biến. Đã thu hút và tạo việc làm thường xuyên cho trên 300 lao động. Nhiều tổ thợ, hộ gia đình mở rộng các loại hình sản xuất kinh doanh như cơ khí, vận tải, may mặc, hàng trăm người nông dân có việc làm thêm và tăng thêm nguồn thu nhập.
Trong lĩnh vực xây dựng: Xã đã chỉ đạo tập trung xây dựng, cải tạo nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong 5 năm, tổng số vốn đấu tư xây dựng các công trình phúc lợ về văn hoá, giao thông thuỷ lợi đạt gần 26 tỷ đồng trong đó có một số công trìnhchào mừng Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVII như công trình nhà công sở, Hội trường xã ; vốn đầu tư phục vụ sản xuất nông nghiệp 5 tỷ đồng; vốn đầu tư của người dân cho xây dựng nhà ở và các công trình phụ cận phục vụ sinh hoạt của bà con Nhân dân gần 51 tỷ đồng (tăng 2,5 lần so với nhiệm kỳ 2005-2010).
Về dịch vụ - thương mại: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, xã đã có chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để bà con nhân dân đầu tư buôn bán kinh doanh. Vì vậy thời gian này dịch vụ và thương mại trên địa bàn phát triển nhanh, đa dạng các mặt hàng, các cơ sở buôn bán. Đến năm 2015, tỷ trọng dịch vụ - thương mại chiếm 38,1% trong cơ cấu kinh tế của xã đáp ứng tốt hơn nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống Nhân dân.
Về công tác quản lý đất đai và môi trường nhất là quản lý đất đai, được quan tâm chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Trong nhiệm kỳ, đã chuyển đổi mục đích từ đất nông nghiệp sang đất ở 1,3ha đảm bảo quy hoạch phát triển dân cư; lập hồ sơ cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho các hộ dân theo số liệu đo đạc mới đạt 100%.
Công tác vệ sinh môi trường có nhiều chuyển biến tích cực. Ý thức vệ sinh môi trường của bà con Nhân dân trong các thôn được nâng lên. Xã đã xây dựng khu chứa rác thải tập trung. Đến năm 2015, toàn xã có 98% hộ nông dân có công trình nước sinh hoạt hợp vệ sinh; gần 80 hộ có nhà vệ sinh tự hoại; các hộ chăn nuôi nhiều đều có hầm Biogas, góp phần tích cực trong việc cải thiện ô nhiễm môi trường ở khu dân cư.
2. Về văn hoá xã hội:
Có nhiều chuyển biến tiến bộ, an sinh xã hội được chăm lo, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao hơn.
Hoạt động văn hoá thông tin, tuyên truyền được triển khai đa dạng, thiết thực, hiệu quả. Đến năm 2015, xã đã đầu tư nâng cấp, sửa chữa hệ thống truyền thanh trị giá 300.000.000 đồng, 100% hộ gia đình có ti vi, phương tiện thông tin liên lạc, sử dụng mạng Internet tăng gấp 4 lần (năm 2010). Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/HU ngày 26/10/2010 của Ban Thường vụ Huyện uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động của làng, cơ quan văn hoá và thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội, việc cưới, việc tang, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã đã kiện toàn ban chỉ đạo, ban quản lý làng, cơ quan văn hoá; kịp thời bổ sung quy ước, hương ước của làng, cơ quan văn hoá phù hợp với yêu cầu mới đặt ra. Phát huy tính tự quản của cộng đồng trên cơ sở nâng cao vai trò tuyên truyền cho đoàn viên, hội viên, cán bộ, công chức, viên chức và cộng đồng dân cư tự giác thực hiện quy ước, hương ước làng, cơ quan văn hoá gắn với triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong 5 năm bình quân hằng năm xã có từ 82-86% hộ đạt gia đình văn hoá; 80-95% hộ đạt danh hiệu gia đình mẫu mực, con cháu hiếu thảo; 6/6 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá. Xã khai trương xây dựng 01 cơ quan văn hoá.
Việc cưới, việc tang cũng được triển khai thực hiện nghiêm túc, trang trọng, tiết kiệm, chu đáo, đảm bảo vệ sinh môi trường. Công tác trùng tu, tôn tạo cụm di tích cách mạng được quan tâm. Đến năm 2015 xã đã hoàn thành 07/13 điểm bia dẫn tích cụm di tích cách mạng.
Phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao phát triển rộng rãi. Cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt động thể thao từng bước được nâng lên. Các câu lạc bộ, các môn thể thao như bóng chuyền, cầu lông, được tổ chức thường xuyên. Toàn xã 100% số thôn có sân chơi thể thao; 30% dân số thường xuyên rèn luyện thể thao. Đoàn thể thao của xã tham gia các hội thi do huyện tổ chức đều đạt giải.
Về giáo dục đào tạo: Luôn luôn được quan tâm đúng mức. Đảng uỷ đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/1/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 5 năm chất lượng giáo dục toàn diện được chú trọng nâng cao. Tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp trung bình hằng năm đạt 98% trở lên. Đội ngũ giáo viên luôn được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Đến năm 2015, 100% giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Ba trường trong xã, đều đạt trường chuẩn quốc gia. Hằng năm có từ 25-30 học sinh thi đậu vào các trường Đại học; 30-35 học sinh đậu vào các trường cao đẳng
Việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trường học, phòng học chức năng được xã và Nhân dân hết sức quan tâm đặc biệt là xây dưng khu trường Mầm Non tập trung 5.900.000 m2 (Từ các điểm dưới thôn nay được tập trung về xã) Tổng đầu tư cho giáo dục trong 5 năm đạt 4,2 tỷ đồng, . Việc dạy thêm, học thêm được quản lý tốt. Công tác khuyến học xã hội hoá giáo dục và các hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng có nhiều chuyển biến. 6/6 thôn, 100% các dòng họ có quỹ khuyến học với số dư lên tới gần 100 triệu đồng; Trung tâm học tập cộng đồng trung bình mỗi năm mở được từ 12 15 lớp bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật, kiến thức pháp luật cho các đoàn viên, hội viên, các tầng lớp Nhân dân góp phần nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nghề trong Nhân dân.
Về y tế, có nhiều chuyển biến tích cực, khu nhà khám chữa bệnh được đầu tư xây dựng gồm 12 phòng, trang thiết bị phục vụ cho việc khám chữa bệnh được đầu tư, các công trình phụ trợ được đầu tư, nâng cấp chất lượng khám, chữa bệnh chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân được nâng lên. Trạm y tế xã đã quan tâm khám chữa bệnh cho người nghèo, các đối tượng chính sách. Công tác y tế dự phòng được tăng cường, kịp thời dập tắt các ổ dịch, không để dịch bệnh xảy ra trên diện rộng. Công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, các chương trình quốc gia về y tế, dân số, gia đình và trẻ em được xã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Năm 2015, xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế (theo bộ tiêu chí mới). Tỷ lệ tăng dân số hằng năm là 0,52%. Số người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng tăng, toàn xã có trên 80% số người đã có thẻ bảo hiểm y tế.
Công tác an sinh xã hội được đặc biệt quan tâm. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với người có công, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Các phong trào Đền ơn đáp nghĩa, Uống nước nhớ nguồn, Quỹ vì người nghèo, v.v được phát động sâu rộng và duy trì thường xuyên. Hằng năm Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các đoàn thể chính trị, xã hội tổ chức thăm hỏi, tặng quà nhân các ngày lễ, tết cho các gia đình chính sách, thương, bệnh binh và các gia đình có hoàn cảnh khó khăn Đồng thời Đảng uỷ đã chỉ đạo các cấp, các thôn đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm. Hằng năm xã phối hợp mở được từ 2 đến 3 lớp dạng nghề và tư vấn xuất khẩu lao động. Đến năm 2015, xã đã giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động nông nghiệp và 54 người xuất khẩu lao động góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 151 hộ (năm 2010) xuống 59 hộ (năm 2015). Các loại hình bảo hiểm tự nguyện trong nhân dân được mở rộng đối tượng, nâng cao tỷ lệ.
3. Về quốc phòng an ninh
Vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng trong công tác quốc phòng an ninh được nâng cao; thực hiện có hiệu quả chiến lược an ninh quốc gia và chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Ban chỉ huy quân sự xã nắm chắc diễn biến tình hình cơ sở, phối hợp chặt chẽ với Ban chỉ huy quân sự huyện duy trì lực lượng sẵn sàng chiến đấu, tham gia diễn tập phòng thủ, huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh. Hằng năm hoàn thành chỉ tiêu giao quân tuyển chọn gọi thanh niên nhập ngũ đảm bảo số lượng, chất lượng; thực hiện nghiêm túc chính sách hậu phương quân đội; tạo điều kiện về vốn, việc làm giúp con em hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương sớm ổn định cuộc sống, tích cực đóng góp vào sự phát triển quê hương.
Công tác an ninh trật tự, Đảng uỷ triển khai thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TU về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới và Đề án 375 của UBND tỉnh về Củng cố tổ chức Ban chỉ đạo an ninh trật tự, các mô hình tự quản về an ninh trật tự từ cơ sở, xây dựng khu dân cư an toàn về an sinh trật tự Qua đó, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh. Lực lượng công an xã tích cực triển khai các biện pháp phòng ngừa, tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm, chống ma tuý bảo đảm an ninh trật tự an toàn giao thông, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, ý thức cộng đồng tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Vì vậy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội các thôn, xóm trên địa bàn xã luôn đảm bảo an toàn.
Thanh tra nhân dân và hoạt động tư pháp thường xuyên được củng cố, thực hiện đúng các quy định đề ra. Duy trì thường xuyên việc tiếp dân, tiếp nhận giải quyết đơn thư theo thẩm quyền đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
4. Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Thực hiện theo quan điểm Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Ban chấp hành Đảng bộ xã thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng để Đảng bộ vươn lên ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trên lĩnh vực công tác chính trị tư tưởng: Ban chấp hành Đảng bộ xã chú trọng việc nâng cao chất lượng hiệu quả việc tổ chức học tập, nghiên cứu các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính phủ, pháp luật của Nhà nước. Tập trung tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất hàng hoá; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở các khu dân cư. Nhất là đổi mới việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động sát đúng, phù hợp với tình hình địa phương. Thông qua đó tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, do đó tạo được sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Tăng cường công tác tổ chức, cán bộ, tập trung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Đổi mới quy trình đánh giá xếp loại chi bộ, đảng viên; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp uỷ, chi bộ. Số chi bộ đạt trong sạch hằng năm đều tăng, bình quân mỗi năm có từ 80% số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh; đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt từ 15-16%; đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt từ 80-85% và số đảng viên hoàn thành nhiệm vụ còn 5-10%. Công tác cán bộ từng bước được quan tâm đổi mới. Coi trọng công tác quy hoạch cán bộ, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng quy trình. Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ, đảng viên. Trong 5 năm, xã đã cử 18 lượt cán bộ đi học lý luận, nghiệp vụ chuyên môn và đại học; 90% cán bộ, công chức trong quy hoạch đã đạt chuẩn theo yêu cầu.
Công tác đảng viên có sự chuyển biến tích cực, trong 5 năm 9/9 chi bộ đều kết nạp được đảng viên mới, toàn đảng bộ đã kết nạp được 32 đảng viên mới (vượt kế hoạch đề ra). Đồng thời Đảng uỷ đã chỉ đạo hoàn thành thủ tục xét công nhận cho 18 đồng chí cán bộ hoạt động cách mạng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thực hiện Chỉ thị 29-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng uỷ đã tổ chức đổi thẻ cho 100% đảng viên trong xã đảm bảo đúng quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ được thực hiện nghiêm túc theo chương trình toàn khoá và hằng năm. Trong 5 năm, Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã kiểm tra, giám sát 45 lượt tại các chi bộ, kiểm tra 2 đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Qua kiểm tra, Đảng uỷ đã quyết định thi hành kỷ luật 6 đảng viên. Công tác kiểm tra đã góp phần nâng cao năng lực, sức chiến đấu của các chi bộ và từng đảng viên.
Hoạt động của chính quyền và các tổ chức chính trị, xã hội:
Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2011-2016 được bầu ngày 22/5/2011 gồm 26 đại biểu. Tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân xã đã bầu ông Đỗ Huy Chân làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó chủ tịch HĐND là Trịnh Ngọc Liên Hội đồng đã bầu ông Nguyễn văn Sơn làm Chủ tịch UBND và các Phó chủ tịch là Ông Mai Văn Thương.
Trong nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân xã đã phát huy được vai trò của cơ quan quyền lực ở địa phương, đổi mới nội dung kỳ họp theo hướng dân chủ, trí tuệ trong thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng phù hợp với tình hình thực tiễn của xã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cử tri. Đồng thời tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri và tổng hợp phản ánh tại các kỳ họp HĐND xã.
Uỷ ban nhân dân: Hiệu lực điều hành của Uỷ ban nhân dân xã từng bước được nâng lên. Bộ máy của Uỷ ban nhân dân xã và các thôn được kiện toàn, củng cố ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động, luôn luôn bám sát chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, nghị quyết Đảng bộ và nghị quyết Hội đồng nhân dân xã để đề ra đề án, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Công tác cải cách hành chính có nhiều đổi mới, thực hiện cơ chế một cửa tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức giải quyết công việc nhanh gọn góp phần thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tăng niềm tin của mọi người dân với sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân đã chủ động tích cực triển khai sâu, rộng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động đến đông đảo đoàn viên, hội viên của tổ chức mình. Hội Liên hiệp Phụ nữ xã với phong trào Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc gắn với cuộc vận động xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch. Hội Cựu chiến binh với phong trào thi đua Cựu chiến binh gương mẫu. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với phong trào xung kích phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đồng hành với Thanh niên lập thân, lập nghiệp. Hội Nông dân với phong trào Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững và phong trào Nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới. Hội Người cao tuổi với phong trào Xây dựng gia đình ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo. Hội chữ thập đỏ với cuộc vận động Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân gắn với một địa chỉ nhận đạo Các phong trào thi đua, các cuộc vận động của các tổ chức chính trị, xã hội được triển khai xuống các thôn, đều gắn với cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, bảo vệ trật tự nên đã mang lại kết quả thiết thực phát huy được sức mạnh và sức sáng tạo của Nhân dân góp phần tích cực trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá và đảm bảo an ninh xã hội ở địa phương.
5 năm (2010 2015), Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI và Nghị quyết đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2010-2015 trong điều kiện có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách. Mặc dù vậy, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân trong xã đã đoàn kết phấn đấu vượt qua khó khăn hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, một số mục tiêu vượt so với kế hoạch. Đảng bộ 4 năm liên tục đạt trong sạch vững mạnh, năm 2012 được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tặng Bằng khen, Ban Thường vụ Huyện uỷ tặng Giấy khen; năm 2013 được UBND tỉnh tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng nông thôn mới gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tháng 12/2014 nhân dân và lực lượng vũ trang xã Xuân Minh vinh dự được Chủ tịch nước truy tăng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống pháp. Đó là tiền đề, là động lực để Đảng bộ và nhân dân trong xã vững tin sẽ nhanh chóng hoàn thành 18/18 tiêu chí và được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá công nhận xã nông thôn mới.
III. TIẾP TỤC ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠO SỰ CHUYỂN BIẾN MẠNH MẼ VỀ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG AN NINH
1. Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015-2020
Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII; Hướng dẫn số 10-HD/TCTU ngày 14/10/2014 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về công tác nhân sự đại hội cấp cơ sở và cấp huyện, nhiệm kỳ 2015-2020, trong 2 ngày từ ngày 19 đến ngày 20 tháng 3 năm 2015, Đảng bộ xã Xuân Minh tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015-2020. Về dự Đại hội có 150 đảng viên từ 09 chi bộ. Đại hội được đón đoàn đại biểu của Huyện uỷ do đồng chí Lê Anh Xuân Bí thư Huyện uỷ và các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ, Ban chấp hành Huyện uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.
Với tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, Đại hội dành thời gian cho các đại biểu tham luận đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2010-2015 và rút ra các bài học, các ưu, khuyết điểm và nguyên nhân đạt được cũng như chưa đạt được của những năm 2010-2015. Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương, Đại hội đã thông qua phương hướng, mục tiêu và các chương trình trọng tâm trong nhiệm kỳ 2015-2020.
Về phương hướng chung, Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu củ tổ chức Đảng, đảng viên, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy nội lực, tranh thủ nhanh và có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất phục vụ đời sống, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tối đa nguồn lực con người, nâng cao chất lượng giáo dục, các hoạt động văn hoá theo hướng xã hội hoá, kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế, xã hội với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, xây dựng Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh đáp ứng với sự nghiệp đổi mới quê hương.
Đại hội đề ra những mục tiêu chủ yếu đến năm 2020 trên các lĩnh vực:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng bình quân 15,3%/năm trở lên. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 25,7% - Công nghiệp, xây dựng 28,9% - Thương mại, dịch vụ 45,4%. Bình quân thu nhập đầu người 41 triệu đồng năm. Tổng sản lượng mía nguyên liệu đạt 4.000 tấn trở lên; Tổng sản lượng lương thực ổn định 3.100 3.200 tấn. Đến năm 2020 có thêm từ 2-3 trang trại quy mô lớn. Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 8 tỷ đồng trở lên. Chuyển đổi từ 20-3- ha đất sang trồng cây ăn quả, hoa màu có hiệu quả kinh tế cao. Tổng vốn đầu tư phát triển hằng năm trên 25 tỷ đồng.
Về văn hoá, xã hội: Xây dựng Trường Tiểu học đạt chuẩn mức độ 02; khai trương xây dựng 01 cơ quan văn hoá; khai trương xã văn hoá; 6/6 làng giữ vững danh hiệu làng văn hoá cấp huyện, 03 cơ quan văn hoá cấp huyện. Giữ vững Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia (theo tiêu chí mới). Ổn định tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 0,6% năm; tỷ lệ hộ nghèo dưới 5%; 100% dân được dùng nước hợp vệ sinh, 100% hộ có công trình vệ sinh hợp vệ sinh.
Về quốc phòng an ninh: Toàn xã không có tội phạm, tệ nạn lớn. Không còn tụ điểm ma tuý. Hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân hằng năm.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Hằng năm có 70% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh; 80% tổ chức chính trị, xã hội đạt vững mạnh; Đảng bộ liên tục 5 năm đạt trong sạch vững mạnh. Trong 5 năm kết nạp được 30 đảng viên mới trở lên.
Đại hội đề ra 3 chương trình trọng tâm:
Một là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/HU ngày 4/11/2014 của Huyện uỷ Thọ Xuân về phát triển kinh tế - xã hội vùng tả ngạn sông Chu.
Hai là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và chất lượng sinh hoạt các chi bộ, đảng bộ xã.
Ba là: Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động làng văn hoá, chỉnh trang lại hệ thống đường giao thông, mương tiêu thoát nước.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 15 đồng chí và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XXVI gồm 5 đồng chí.
Tại kỳ họp thứ nhất, Ban chấp hành Đảng bộ xã Xuân Minh đã bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Đỗ Huy Chân được bầu làm Bí thư Đảng uỷ; đồng chí Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch UBND xã được bầu làm Phó Bí thư và đồng chí Trịnh Ngọc Liên được bầu làm Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ.
Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2015-2020 thành công đã mang lại niềm tin tưởng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân; mở ra khả năng mới đầy hứa hẹn để biến những tiềm năng thành hiện thực.
2. Xã được công nhận xã nông thôn mới, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (2015-2020).
Vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng cấp trên vào điều kiện cụ thể của xã. Đảng uỷ đã đề ra chủ trương và các giải pháp cụ thể, phù hợp và kịp thời tổ chức, chỉ đạo thực hiện. Trong 5 năm, mặc dù có những lúc rất khó khăn nhất là sự không ổn định về giá cả thị trường và thiên tai, dịch bệnh, nhưng Đảng bộ, nòng cốt là Ban chấp hành đã phát huy được sự đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân, vì thế Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh đã vượt qua mọi khó khăn hoàn thành và một số mục tiêu và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ đã đẩy mạnh lãnh đạo, chỉ đạo, huy động sự đóng góp tích cực về sức người, sức của của các tầng lớp Nhân dân. Đầu năm 2015, xã đã hoàn thành 16/18 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Sau Đại hội, Đảng uỷ đã chỉ đạo tập trung mọi nguồn lực để hoàn thành 2 mục tiêu còn lại và tiếp tục duy trì, nâng cao các tiêu chí đã hoàn thành. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng uỷ, Uỷ nhân dân xã, Nhân dân đã tích cực tham gia đóng góp: hiến đất, hiến công sức đến tháng 6 năm 2015, toàn xã Nhân dân đã đóng góp xây dựng được 02 ngôi đình làng, ngõ xóm. Bà con nhân dân hăng hái tham gia các phong trào, các cuộc vận động của địa phương. Tháng 8 năm 2015, xã Xuân Minh được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đời sống của mọi người dân trong xã và bộ mặt nông thôn được nâng lên tầm cao mới.
Để đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, Đảng uỷ đã triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ, giải pháp, chú trọng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2015-2020. Từ đó tạo động lực cho nhiều ngành kinh tế phát triển, tăng giá trị sản xuất kinh doanh dịch vụ trên địa bàn. Kết quả, trong 5 năm, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản bình quân hằng năm đạt 15,3% (tăng 4,3% so với mục tiêu Đại hội); tổng sản lượng lương thực đạt 3.200 tấn; cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hương tích cực, đã chuyển thêm được 12ha diện tích cây lúa năng xuất thấp sang trồng các cây trồng, vật nuôi hiệu quả cao hơn. Sản lượng mía nguyên liệu tăng từ 4.000 tấn (năm 2014) lên 7.000 tấn (năm 2020); đồng thời chuyển diện tích vụ đông trên đất 2 lúa từ thuần tuý trồng cây hàng hoá như ngô thương phẩm sang ngô ngọt, bí, ớt, cho hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, xã chỉ đạo hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp cung ứng giống, phân bón thuốc trừ sâu, làm mạ khay, máng cấy, phục vụ bà con đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Thời gian này, mặc dù dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp nhưng chăn nuôi trên địa bàn xã vẫn được duy trì, phát triển. Tổng đàn lợn hằng năm đạt 6.000 con; đàn gia cầm 134.688 con, xã đã quy hoạch vùng đất ven sông Cầu Chày với diện tích 36ha, tạo điều kiện cho các hộ xây dựng trang trại tổng hợp. Đến năm 2020, xã đã có 7 trang trại tổng hợp, 02 trang trại quy mô lớn. Việc chăn nuôi nhỏ lẻ trong các khu dân cư từng bước được quy hoạch theo hướng chăn nuôi tập trung ở các gia trại và trang trại, đồng thời mở rộng nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề và đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục phát triển. Đến năm 2020, số hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề có hướng phát triển tốt, đã thu hút và tạo việc làm thường xuyên cho hơn 300 lao động tại chỗ. Nhiều tổ thợ, hộ gia đình tập trung mở rộng các loại hình sản xuất kinh doanh, đa dạng các sản phẩm góp phần tăng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp đưa nền kinh tế của xã phát triển mạnh hơn so với giai đoạn 2011-2015 và so với Nghị quyết Đại hội.
Để thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế, hạ tầng cơ sở nông nghiệp, nông thôn, xã đã phát động phong trào quần chúng tự nguyện tu bổ, mở rộng, làm mới các công trình phúc lợi về văn hoá, giao thông, thuỷ lợi với tổng số vốn đầu tư trên 62,3 tỷ đồng. Toàn xã đã bê tông hoá 100% đường giao thông liên thôn, liên xóm và đường kênh mương nội đồng. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, trùng tu, tôn tạo, cắm bia, biển cụm di tích cách mạng gồm 13 điểm đã được xã và bà con nhân dân tích cực triển khai, từng bước đưa vào hoạt động đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của Nhân dân.
Dịch vụ - thương mại phát triển đa dạng, phong phú nhiều loại hình như vận tải, chế biến lâm sản. Xã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp, các hộ gia đình đầu tư phát triển dịch vụ. Hoạt động dịch vụ thương mại tăng nhanh chiếm tỷ trọng ngày càng cao, từ 38,1% (năm 2014) lên 51,4% (năm 2019), đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sản xuất và đời sống Nhân dân.
Hoạt động tài chính tín dụng: Tổng thu ngân sách 5 năm (2016-2020) đạt 51,4 tỷ đồng (tăng 185% so với nhiệm kỳ 2010-2015). Các nguồn thu ở địa phương được khai thác đạt kết quả cao. Công tác thu, chi ngân sách đảm bảo đúng quy định của pháp luật và kế hoạch đề ra. Hoạt động tín dụng được quan tâm chỉ đạo và phối hợp với các ngân hàng thực hiện đảm bảo hiệu quả cao. Đến năm 2020, tổng dư nợ ngân hàng là 38,2 tỷ đồng. Các nguồn vốn được Nhân dân vay sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao.
Công tác quản lý việc sử dụng đất theo quy hoạch, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, lập thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã đi vào nền nếp, đúng quy định. Đến năm 2020, xã đã chuyển 1,37ha sang quy hoạch phát triển dân cư; 12ha chuyển từ diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng cây công nghiệp ngắn ngày đạt hiệu quả cao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình đạt 96,8% tổng số hộ dân.
Công tác vệ sinh môi trường được đẩy mạnh. Đảng uỷ đã đề ra chủ trương và giao cho Uỷ ban nhân dân xã xây dựng và triển khai đề án thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải trên địa bàn xã giai đoạn 2017-2020 định hướng đến năm 2025. Toàn xã Nhân dân rất tích cực hưởng ứng. Đến năm 2020, 100% hộ nông dân có công trình nước hợp vệ sinh, 85% hộ có nhà vệ sinh tự hoại, các gia đình chăn nuôi có hầm Bioga góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường.
Lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao. Công tác thông tin, tuyên truyền, trọng tâm là tuyên truyền việc triển khai và tổ chức thực hiện các Chỉ thị, nghị quyết của Đảng cấp trên; nhiệm vụ của địa phương xã đã đầu tư nâng cấp, sửa chữa hệ thống truyền thanh tổng kinh phí hết 55 triệu đồng. Đến năm 2020, toàn xã đã có 99% số hộ có ti vi, điện thoại di động tăng 8 lần so với giai đoạn 2010-2015; số người dân sử dụng Internet tăng 6 lần (so với năm 2015). Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng duy trì thường xuyên như: bóng chuyền, kéo co, cầu lông, và giao lưu văn nghệ mừng Đảng, mừng xuân, kỷ niệm những ngày lễ lớn Toàn xã 5/5 thôn quy hoạch sân chơi thể thao ở thôn, có 20% dân số thường xuyên tập thể dục, thể thao. Hằng năm có từ 82-86% hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá, 80-95% hộ gia đình đạt gia đình ông bà cha mẹ mẫu mực con cháu hiếu thảo, 5/5 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá các cấp và đã khai trương xây dựng 01 cơ quan văn hoá. Công tác bảo tồn, sửa chữa, nâng cấp các di tích lịch sử, di tích cách mạng, di tích lịch sử - văn hoá tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, Nhân dân trong xã tích cực ủng hộ góp phần xây dựng xã ngày càng phát huy giá trị lịch sử truyền thống của quê hương.
Giáo dục và đào tạo được chăm lo phát triển toàn diện. Cơ sở vật chất ở các trường học được đầu tư và khai thác hiệu quả cao. Trong 5 năm xã đã đầu tư cho giáo dục gần 5 tỷ đồng. Đồng thời dưới sự chỉ đạo của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, các trường đã đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt, học tốt vì vậy chất lượng dạy và học ở cả 3 trường đều được nâng lên rõ rệt. 100% trẻ trong độ tuổi được phổ cập giáo dục ở các cấp học. Hằng năm tỷ lệ học sinh được lên lớp và đậu tốt nghiệp đạt 98% trở lên và có từ 45-50 học sinh đậu các trường đại học, cao đẳng. Đến năm 2020, cả 3 trường: Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở đều đạt chuẩn quốc gia.
Công tác khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập phát triển mạnh hoạt động của Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo chức và Trung tâ học tập cộng đồng ngày càng có hiệu quả thiết thực. Trung tâm học tập cộng đồng trung bình mỗi năm mở được từ 12-15 lớp bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật, kiến thức pháp luật cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân. Toàn xã 5/5 thôn và 100% dòng họ xây dựng được quỹ khuyến học. Tổng quỹ khuyến học của xã đạt hàng trăm triệu đồng.
Công tác y tế, dân số - gia đình và trẻ em tiếp tục được các Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quan tâm. Trạm y tế xã phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tổ chức ngày hội hạnh phúc, chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho chị em phụ nữ trong độ tuổi ; thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân; duy trì, thực hiện tốt các mặt y tế dự phòng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, không để dịch bệnh vùng phát. Các chương trình quốc gia về y tế thực hiện có hiệu quả. Đến năm 2020, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt 87%.
Các chế độ chính sách xã hội đối với người có công, chính sách an sinh xã hội thực hiện tốt. Hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện được Nhân dân tích cực tham gia. Xã phối hợp với các công ty, doanh nghiệp trong tuyển dụng lao động. Trong năm 2019, toàn xã giải quyết việc làm cho hơn 100 lao động nông nghiệp, 154 người đi xuất khẩu lao động. Đời sống Nhân dân cải thiện rõ rệt. Năm 2015, số hộ nghèo trong xã có 59 hộ, đầu năm 2020 giảm còn 16 hộ.
Quốc phòng an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội bảo đảm; công tác thanh tra, tư pháp có chuyển biến tích cực. Đảng uỷ đã triển khai quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, của huyện Thọ Xuân về nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Hằng năm xã đội đã xây dựng kế hoạch tham mưu với Đảng uỷ nội dung, chương trình huấn luyện, chương trình diễn tập phòng thủ, v.v... Trong 5 năm, Ban chỉ huy xã đội đã hoàn thành công tác huấn luyện quân sự, công tác tuyển quân, nhất là đã làm tốt công tác giáo dục chính trị cho các đối tượng theo quy định. Công tác hậu phương quân đội được thực hiện đầy đủ, kịp thời và chú trọng xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đầu, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân phòng cháy, chữa cháy.
Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác an ninh trật tự trên địa bàn. Ban Công an xã đã đẩy mạnh tuyên truyền các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng; hoạt động của Ban Công an xã và các tổ an ninh ở các thôn đem lại nhiều hiệu quả thiết thực. Vì vậy không để xảy ra các vụ việc phức tạp, giữ vững sự bình yên trong các khu dân cư.
Về lĩnh vực tư pháp, các hồ sơ tiếp nhận căn bản được giải quyết kịp thời, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Trong nhiệm kỳ, xã đã tổ chức được các lớp tập huấn về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến, tạo thuận lợi cho các tập thể và Nhân dân đến giải quyết các thủ tục hành chính nhanh, gọn.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân: Hội đồng nhân dân xã khoá XIX, nhiệm kỳ 2016-2021, được bầu vào ngày 22/5/2016, cử tri đã bầu đủ 26 vị đại biểu đại diện cho các tổ chức, các tầng lớp Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong nhiệm kỳ, Thường trực HĐND, các đại biểu HĐND đã bám sát phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu Đại hộ Đảng bộ, đề ra nghị quyết kịp thời, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương nên có tính khả thi cao. Đổi mới, nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri bằng nhiều hình thức, đại biểu Hội đồng nhân dân sâu sát với địa bàn dân cư, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cư tri kịp thời phản ánh với cấp trên giải quyết. Trong 5 năm, Hội đồng nhân dân xã đã tiến hành giám sát và phối hợp giám sát trên các lĩnh vực là 21 cuộc, tổ chức thành công 11 kỳ họp. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc được duy trì và phối hợp tốt, hỗ trợ lẫn nhau chung sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Uỷ ban nhân dân xã trong những năm 2015-2020, triển khai nghiêm túc Nghị quyết của Đảng uỷ và Hội đồng nhân dân. Quá trình chỉ đạo, điều hành, Thường trực Uỷ ban nhân dân đã có nhiều giải pháp tích cực để tăng cường công tác quản lý trên các lĩnh vực như: Chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông nghiệp, tích tục đất đai sản xuất theo quy mô lớn và công nghệ cao, phát triển các mô hình dịch vụ - thương mại; đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở và công tác tiếp dân. Mối quan hệ giữa cán bộ xã với các thôn được tăng cường, tranh thủ được sự lãnh đạo của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các ban, ngành, đoàn thể chính trị, xã hội của huyện để triển khai thực hiện có hiệu quả cao nhất các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội hoạt động tích cực, thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức sinh hoạt, thu hút ngày càng càng đông đảo đoàn viên, hội viên.
Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 30/12/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội của tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2015-2020 và chương trình hành động số 17-CTr/HU của Ban Thường vụ Huyện uỷ về thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU, Mặt trận Tổ quốc xã đã tăng cường các hoạt động tiếp xúc, đối thoại, tham dự sinh hoạt thường kỳ với các chi hội, chi đoàn và thường xuyên đi về các thôn nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của bà con Nhân dân. Xây dựng và phát triển thực hiện có hiệu quả Đề án Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân trong công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, không sử dụng chất cấm trong sản xuất nông nghiệp và chấp hành luật về an toàn giao thông giai đoạn 2017-2020; tổ chức triển khai thực hiện Quyết định 217, 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị về giám sát, phản biện xã hội tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Năm 2018, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2018-2023. Đại hội đã hiệp thương bầu Trịnh Minh Nguyên làm Chủ tịch. Trong những năm 2018-2020, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã đã triển khai xây dựng các mô hình về an toàn thực phẩm, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lụt bão, ủng hộ quỹ phòng chống Covid 19 Mặt trận Tổ quốc xã đã phát động các tổ chức thành viên, kêu gọi đoàn viên, hội viên hưởng ứng cuộc vận động cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau, ủng hộ Quỹ vì người nghèo, v.v Kết quả đã vận động được số tiền trên 130 triệu đồng để giúp đỡ người nghèo, gia đình khó khăn. Đồng thời phối hợp xây dựng được 03 nhà Đại đoàn kết với tổng kinh phí là 120 triệu đồng. Trong nhiệm kỳ, đã cùng HĐND tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Riêng HĐND xã đã bầu đủ số lượng đại biểu quy định. Bên cạnh đó, Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc xã tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri đảm bảo thành phần, số lượng cử tri tham gia, nhất là các ý kiến, kiến nghị của cử tri đã được chuyển kịp thời cấp có thẩm quyền giải quyết. Năm 2019, phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã đã tổ chức thành công cuộc bầu cử Trưởng thôn nhiệm kỳ 2010 2021. Hằng năm Mặt trận Tổ quốc xã đều được xếp loại xuất sắc, liên tục được Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã khen thưởng.
Hoạt động của phụ nữ và Hội Liên hiệp Phụ nữ: Tháng 4 năm 2016, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã tổ chức Đại hội, nhiệm kỳ 2016-2021. Với tinh thần: Đoàn kết Sáng tạo Bình đẳng Phát triển, Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu trong nhiệm kỳ 2016-2021, đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ tập trung là 2 phong trào thi đua và 2 cuộc vận động. Đại hội bầu chị Lê Thị Phương làm Chủ tịch Hội.
Triển khai Nghị quyết Đại hội, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đã phát động phong trào thi đua tích cực hưởng ứng các cuộc vận động theo từng đợt hoặc từng giai đoạn như: Phong trào thi đua chào mừng đại hội Đảng các cấp; Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 90 năm thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Đẩy mạnh phong trào thi đua Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc và phong trào Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch. Xây dựng mô hình Chi hội Phụ nữ tự quản về vệ sinh môi trường; mô hình làng quê an toàn cho phụ nữ và trẻ em; mô hình đường hoa tự quản, v.v Hội đã vận động Hội viên tham gia mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện với mô hình tổ, nhóm phụ nữ tiết kiệm mua bảo hiểm y tế. Đến năm 2020, số hội viên và phụ nữ xã tự nguyện mua bảo hiểm y tế đạt 87%. Số hội viên tham gia sinh hoạt hội ngày càng tăng, đến năm 2020 đạt tỷ lệ 80,6% (một trong những xã có tỷ lệ hội viên tham gia sinh hoạt cao của huyện). Hằng năm Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đều đạt xuất sắc được các cấp khen thưởng.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: Thời gian này hoạt động của Đoàn Thanh niên rất khó khăn. Song Ban chấp hành Đoàn xã đã không quản ngại, nỗ lực, chủ động trong tham mưu với Đảng uỷ đề ra nhiệm vụ cho Đoàn thanh niên và phong trào thanh thiếu nhi trong xã. Vì vậy, Đoàn Thanh niên đã tạo được nhiều đột phá trên mọi lĩnh vực được Đảng uỷ, chính quyền xã và Đoàn cấp trên đánh giá cao; Tỷ lệ thuh út đoàn viên thanh niên trong xã đạt trên 65%.
Năm 2017, Đoàn Thanh niên xã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2017-2022. Đại hội đã bầu đồng chí Trịnh Văn Quảng làm Bí thư xã Đoàn. Sau Đại hội, Ban chấp hành Đoàn xã đã chú trọng đổi mới nội dung sinh hoạt, quan tâm chỉ đạo cho thanh, thiếu niên, nhi đồng nhiều sân chơi bổ ích có giá trị giáo dục cao. Bên cạnh đó, hằng năm Đoàn xã đã làm tốt công tác tư vấn, hỗ trợ thanh niên về hướng nghiệp, giới thiệu việc làm và phát triển kinh tế, thành lập doanh nghiệp, v.v Phối hợp với các trường xây dựng mô hình Cổng trường an toàn giao thông xanh sạch đẹp tại các trường học trong xã.
Hội Cựu chiến binh: Tiếp tục duy trì và làm tốt công tác vận động Cựu chiến binh gìn giữ phát huy phẩm chất Anh bộ đội cụ Hồ, gương mẫu thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hăng hái thi đua phát triển kinh tế, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Thời gian này Hội đã tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ 2017-2022. Đồng chí Lê Đức Cần được bầu làm Chủ tịch.
Sau Đại hội, Hội Cựu chiến binh xã đẩy mạnh phong trào xây dựng mô hình Cựu chiến binh tham gia bảo vệ môi trường ngoài đồng ruộng; triển khai thực hiện có hiệu quả các mô hình 3/1, Đề án mô hình Tổ 3 chủ động. Đặc biệt là xã đã thành lập được Câu lạc bộ hội viên Cựu Chiến binh làm kinh tế giỏi với 100% hộ gia đình có hội viên Cựu chiến binh tham gia. Bên cạnh đó, các chi hội Cựu chiến binh ở các thôn đã nhận tham gia các đoạn đường Cựu chiến binh tự quản góp phần làm sạch đường làng, ngõ xóm giữ gìn vệ sinh môi trường ở các khu dân cư. Trong những năm 2015-2020, Hội Cựu chiến binh xã luôn giữ vững danh hiệu trong sạch, vững mạnh xuất sắc.
Hội Nông dân xã luôn luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương và cán bộ Hội tăng cường đi về cơ sở nắm bắt tình hình tư tưởng cũng như tâm tư nguyện vọng của bà con nông dân, quan tâm hỗ trợ hội viên về vốn, vật tư, mở các lớp chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật, dạy nghề, Hằng năm, phối hợp với Trung tâm học tập cộng đồng mở từ 3 đến 5 lớp tuyên truyền, phổ biến nâng cao kiến thức pháp luật, tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, cách phòng chống dịch bệnh và sử dụng các chế phẩm sinh học trong trồng trọt, chăn nuôi. Ngoài ra, Hội đã chủ động tuyên truyền vận động hội viên xây dựng quỹ Hội Nông dân và quản lý tốt các nguồn vốn vay phát triển từ quỹ hỗ trợ nông dân của Tỉnh và Trung ương tạo điều kiện cho các hộ nông dân và hội viên Hội Nông dân phát triển kinh tế để giảm nghèo và vì vậy hội viên tham gia ngày càng đông. Đến năm 2020, tỷ lệ hội viên tham gia sinh hoạt hội đạt 80% và Hội liên tục đạt vững mạnh xuất sắc.
Hoạt động của các tổ chức Hội quần chúng: Các tổ chức Hội quần chúng gồm có: Hội Người cao tuổi; Hội Khuyến học; Hội Cựu giáo chức; Hội Cựu Thanh niên xung phong; Hội Chữ thập đỏ; Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em; Hội Nạn nhân chất độc da cam Đioxin, Các Hội luôn chủ động nắm bắt tình hình hội viên, bám sát nhiệm vụ chính trị tích cực tham gia thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương góp phần quan trọng trong việc hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, lòng tin của Nhân dân với Đảng ngày càng được nâng cao. Hằng năm, các tổ chức Hội quần chúng đều đạt danh hiệu vững mạnh.
Công tác xây dựng Đảng:
Trong nhiệm kỳ 2015-2020, Ban chấp hành Đảng bộ đã đẩy mạnh xây dựng Đảng trên cả ba mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ.
Công tác chính trị, tư tưởng: Ngay từ đầu nhiệm kỳ Ban chấp hành Đảng bộ đã tổ chức triển khai trong toàn Đảng bộ học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Đảng bộ huyện lần thứ XXVI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII. Đồng thời Đảng uỷ đã lãnh đạo triển khai học tập và yêu cầu cán bộ, đảng viên viết thu hoạch nghiêm túc việc thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khoá XII) về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Do có sự chỉ đạo đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo nên tỷ lệ đảng viên, cán bộ công chức tham gia học tập Nghị quyết đạt 96%, cao hơn so với các lần triển khai trước. Thôngm qua đó góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, tạo niềm tin của Nhân dân với Đảng.
Công tác tổ chức, cán bộ: Ban chấp hành Đảng bộ xã đã tập trung xây dựng, củng cố các chi bộ, Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 12/3/2012 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu Thanh Hoá trở thành tỉnh tiên tiến vào năm 2020. Đảng uỷ đã chỉ đạo tổ chức thực hiện việc phân công cán bộ trong cấp uỷ tham gia ứng cử để bầu các chức danh chủ chốt của HĐND và UBND nhiệm kỳ 2016-2021; năm 2018, căn cứ theo Nghị quyết số 106/NQ-HĐND ngày 11/7/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hoá về Đổi tên, chuyển thôn thành khu phố; sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố mới tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã đã tập trung lãnh đạo sáp nhập thôn Thiên Lộc và thôn Quang Hoa thành thôn Hoa Lộc, đồng thời Đảng uỷ xã Quyết định thành lập chi bộ thôn Hoa Lộc đồng thời đổi tên các chi bộ từ số thứ tự sang tên thôn trên phạm vi toàn xã. Đến tháng 10 năm 2018 xã từ 9 chi bộ còn 8 chi bộ (gồm 5 chi bộ thôn và 3 chi bộ nhà trường). Sau sáp nhập Đảng uỷ kiện toàn 8 chi uỷ, chi bộ theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội của xã được quan tâm. Xã đã cử hàng chục cán bộ, đảng viên đi học các lớp của tỉnh, của huyện mở. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức được nâng lên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức xã cơ bản được chuẩn hoá theo quy định. 100% có trình độ văn hoá Trung học phổ thông; 70% có trình độ đại học; 100% có trình độ lý luận chính trị trung cấp. Chất lượng nguồn quy hoạch cơ bản đáp ứng được yêu cầu sử dụng trong nhiệm kỳ.
Từ năm 2015 đến năm 2020, Đảng uỷ đã kết nạp được 36 đảng viên mới (vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra), 100% số chi bộ đều kết nạp được Đảng viên mới và thực hiện nghiêm túc việc bình xét phân loại tổ chức Đảng và đảng viên. Qua bình xét hằng năm có 15-20% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ còn 5-10% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ. Đảng bộ liên tục đạt Đảng bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Hoạt động kiểm tra, giám sát: Đảng uỷ chỉ đạo Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ triển khai nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra, giám sát 45 lượt ở các chi bộ; xử lý kỷ luật 8 đảng viên. Chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng viên đảm bảo nguyên tắc, kịp thời, có tính giáo dục cao tạo được sự đồng thuận trong hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân.
Về công tác Dân vận: Đảng uỷ chỉ đạo kiện toàn tổ dân vận ở khu dân cư, vận động đảng viên và Nhân dân tích cực tham gia các phong trào yêu nước và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới. Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã triển khai 4 cuộc tiếp xúc, đối thoại của Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội và Nhân dân trên địa bàn xã. Đồng thời khối Dân vận phối hợp với Công an xã tổ chức diễn đàn Công an lắng nghe ý kiến Nhân dân, tổ chức tốt công tác tiếp dân, giải quyết kịp thời các ý kiến, kiến nghị của Nhân dân. Vì vậy, được Nhân dân tin tưởng và tích cực tham gia các phong trào, các cuộc vận động do địa phương phát động như phong trào làm đường giao thông; phong trào xây dựng nhà văn hoá, làm kênh mương nội đồng và hàng chục các công trình phúc lợi khác với tổng số vốn đầu tư tới hàng tỷ đồng.
Trong nhiệm kỳ 2015-2020, tình hình kinh tế của tỉnh và huyện Thọ Xuân có nhiều khởi sắc đã tác động tích cực đến sự phát triển về kinh tế - xã hội của địa phương. Được sự quan tâm trực tiếp của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, sự phối hợp của các phòng, ban, đoàn thể của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh đã tranh thủ thời cơ, đoàn kết, quyết tâm vượt qua những khó khăn, thử thách giành được thắng lợi, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng hiệu lực, hiệu quả, phong trào xây dựng Nông thôn mới đã tạo khí thế thi đua rộng khắp trong toàn xã và những người con xa quê từ đó phát huy được vai trò chủ thể của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, giúp diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng nâng cao.
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng đất đai lợi thế của địa phương; phát triển ngành nghề còn lúng túng, chưa xây dựng được các mô hình, điển hình để phát triển kinh tế. Công tác thông tin tuyên truyền còn mang tính hình thức chưa đi vào trọng tâm, trọng điểm. Mặc dù vậy nhưng những kết quả đạt được vẫn là quan trọng, đó cũng chính là hành trang vững chắc, để Xuân Minh phát triển các mặt kinh tế, xã hội xây dựng xã sớm thành mục tiêu xã nông thôn mới nâng cao.
IV. TẬP TRUNG MỌI NGUỒN LỰC, TẠO BƯỚC ĐỘT PHÁ PHẤN ĐẤU XÂY DỰNG HẠ TẦNG CƠ SỞ THEO TIÊU CHÍ PHƯỜNG VÀ TRỞ THÀNH PHƯỜNG TRƯỚC NĂM 2030.
Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30 tháng 5 năm 2019 của Bộ Chính trị về Đại hội các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Ngày 25/5/2020, Đại hội Đảng bộ xã Xuân Minh lần thứ XXVIII khai mạc trọng thể với 148 đại biểu chính thức thay mặt cho 324 đảng viên của Đảng bộ về dự Đại hội.
Trong 2 ngày, từ ngày 25 đến ngày 26 tháng 5 năm 2020, Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015-2020 và xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2020-2025. Với phương châm hành động Đoàn kết Dân chủ - Kỷ cương Đổi mới Phát triển, Đại hội đề ra phương hướng tổng quát của nhiệm kỳ 2020-2025 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy nội lực, tranh thủ nhanh và có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất, phục vụ đời sống, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế, xã hội, phát huy tối đá nguồn lực con người, nâng cao chất lượng giáo dục, các hoạt động văn hoá theo hướng xã hội hoá, kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế - xã hội với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, xây dựng Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, đáp ứng với sự nghiệp đổi mới quê hương.
Đại hội quyết nghị một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2025. Về kinh tế (13 chỉ tiêu):
- Thu nhập bình quân đầu người 75.000.000đ trở lên/ năm.
- Diện tích đất được tích tụ tập trung để sản xuất nông nghiệp đạt 80ha.
- Tổng sản lượng lương thực 3.200 tấn.
- Diện tích, năng xuất, sản lượng các cây trồng chủ yếu:
+ Lúa: 428ha; năng xuất 6,55 tấn/ha; sản lượng 2.803 tấn trở lên.
+ Ngô: 70ha; năng xuất 5,5 tấn/ha; sản lượng 385 tấn trở lên.
+ Lạc: 5 ha; năng xuất 0,14 tấn/ha; sản lượng 0,4 tấn trở lên.
+ Mía: 50 ha; năng xuất 14 tấn/ha; sản lượng 7.000 tấn trở lên.
- Tổng đàn gia súc, gia cầm: 151.528 con trở lên.
- Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản: 35.200 tấn.
- Số lượng doanh nghiệp mới: 16 doanh nghiệp trở lên.
- Thu ngân sách hằng năm tăng: 15% trở lên.
- Tỷ lệ thôn đạt nông thôn mới nâng cao: 100%; có 2 thôn đạt kiểu mẫu.
- Tỷ lệ đường giao thông được cứng hoá: 100%
- Tỷ lệ kênh mương được cứng hoá: 100%
- Xã đạt nông thôn mới nâng cao vào năm 2020.
- Phấn đấu hoàn thành cơ sở hạ tầng theo tiêu chí phường.
Về văn hoá, xã hội (08 chỉ tiêu):
- Tốc độ tăng dân số bình quân 0,5%/ năm.
- Số hộ nghèo giảm bình quân 2%/ năm.
- Tỷ lệ hộ cận nghèo dưới 5%/năm.
- Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế: 98%.
- Tỷ lệ hộ gia đình có nhà ở đạt tiêu chuẩn: 100%
- Tỷ lệ trẻ em dưới 6 tuổi được tiêm phòng: 100%.
- Tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hoá đạt 96%.
- Tỷ lệ thông kiểu mẫu: 40%.
Về môi trường (02 chỉ tiêu):
- Tỷ lệ dân số được dùng nước sạch đạt 80%.
- Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, xử lý đạt 98%.
Về an ninh trật tự (01 chỉ tiêu):
- Tỷ lệ khu dân cư đạt tiêu chuẩn an toàn về ANTT đạt 100%.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị (02 chỉ tiêu):
- Trong nhiệm kỳ kết nạp mới được 30 đảng viên.
- Tỷ lệ chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm đạt 80% trở lên. Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể chính trị, xã hội đạt vững mạnh.
Đại hội đề ra 4 chương trình trọng tâm:
Một là: Chương trình tích tụ, tập trung đất đai phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hoá, quy mô lớn, ứng dụng nghệ cao. Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Hai là: Chương trình xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng theo tiêu chí phường.
Ba là: Chương trình nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Bốn là: Chương trình tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động làng văn hoá, chỉnh trang lại hệ thống đường giao thông, mương tiêu nước.
Đại hội chỉ rõ những giải pháp chủ yếu về kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị. Đại hội đã bầu được 13 đồng chí đại diện cho ý chí, nguyện vọng của đảng viên trong Đảng bộ vào Ban chấp hành Đảng bộ khoá XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025. Trong phiên họp thứ nhất, Ban chấp hành bầu đồng chí Trịnh Bá Lập làm Bí thư Đảng uỷ và hai đồng chí Phó Bí thư là Đỗ Huy Hùng và Võ Văn Quang.
Thực hiện nhiệm vụ trong những năm 2020-2023, xã Xuân Minh có những thuận lợi cơ bản. Đó là xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ bản. Đặc biệt, vốn là xã có truyền thống cách mạng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân đoàn kêt đã vượt qua nhiều khó khăn, cán bộ, đảng viên và Nhân dân đoàn kết đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để xây dựng quê hương. Đây là yếu tố nội lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của xã. Tuy nhiên, đây cũng là thời gian xã Xuân Minh cũng như cả nước gặp đại dịch Covid 19 làm cho tình hình kinh tế, xã hội và đời sống các tầng lớp Nhân dân gặp vô vàn khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Đảng bộ xã.
Được sự lãnh đạo sát sao, trực tiếp của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện Thọ Xuân, Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã đã chỉ đạo quyết liệt, đồng thời Ban Thường vụ Đảng uỷ, Ban chấp hành Đảng bộ đã quyết tâm đổi mới phương thức quản lý, điều hành của chính quyền, tranh thủ và thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, nên trong thời gian nửa nhiệm kỳ, các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXVIII đề ra đã cơ bản đạt được.
Trên lĩnh vực kinh tế: Đảng uỷ tiếp tục chỉ đạo tập trung thực hiện tốt Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 20/4/2015 của Ban chấp hành Tỉnh uỷ về tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, Uỷ ban nhân dân xã đã có nhiều chủ trương khuyến khích hỗ trợ nông dân các giống lúa, ngô lai, lạc, mía có năng xuất cao và tiếp tục vận động bà con nông dân tích tụ ruộng đất, đổi mới quan hệ sản xuất, tổ chức phát triển xây dựng trang trại, gia trại, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi.
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng hết diện tích và tăng diện tích cây trồng có giá trị cao, đến tháng 5 năm 2023, toàn xã đã chuyển đổi 90% diện tích lúa năng xuất kém hiệu quả sang trồng lúa giống chất lượng cao; 100% diện tích ngô đều sử dụng giống ngô lai; cây đậu tương, cây ớt sản xuất 3 vụ chính trong năm (vụ xuân, vụ hè, vụ đông) với diện tích 155-160ha cho hiệu quả kinh tế cao.
Đối với ngành trồng trọt, thời gian này xã đã đầu tư cơ giới hoá rộng rãi. Xã đã mua được 04 máy gặt đập liên hợp; 10 máy làm đất. Vì vậy đã cơ giới hoá được trên 90% diện tích khâu làm đất, diện tích cấy bằng máy cũng như thu hoạch bằng máy đã được bà con sử dụng ngày càng nhiều. Nhờ đó đã giúp bà con nông dân tiết kiệm giống, thời gian lao động, chủ động về thời vụ, giảm giá thành sản xuất. Bên cạnh đó, hợp tác xã cung ứng giống, phân bón, bao tiêu sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp, phối hợp với Công ty giống Thái Bình quy hoạch vùng sản xuất và bao tiêu lúa giống cho năng xuất chất lượng cao.
Đối với chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm, mặc dù thời gian này đại dịch Covid-19 diễn ra phức tạp ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống mọi người dân, nhưng chăn nuôi trên địa bàn xã vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. Xã đã quy hoạch vùng đất ven sông Cầu Chày phát triển chăn nuôi trang trại tổng hợp. Đến năm 2023, toàn xã có 07 trang trại tổng hợp; 04 trang trại quy mô lớn. Việc chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư từng bước được quy hoạch.
Đối với sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ: Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã đã lãnh đạo, chỉ đạo giải phóng hành lang an toàn giao thông, thông thoáng để Nhân dân hai bên quốc lộ 47B, đường Lê Hoàn xây dựng các cửa hàng, cửa hiệu. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình phát triển sản xuất kinh doanh. Đến tháng 3 năm 2023 xã đã có 04 Công ty đầu tư vào và mở thêm được 03 doanh nghiệp giải quyết công ăn việc làm cho đông đảo con em trong xã và các vùng lân cận.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ, chính quyền xã và cơ bản là được sự đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân, đến giữa nhiệm kỳ 2020-2025 về kinh tế xã đã thực hiện được các chỉ tiêu chủ yếu.
- Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản 157.672.000 đồng (đạt 50% kế hoạch).
- Sản lượng lương thực bình quân hằng năm đạt 6.095 tấn (đạt 45,9% kế hoạch).
- Diện tích, năng xuất một số cây trồng chủ yếu:
+ Cây lúa: Diện tích 565 ha (đạt kế hoạch), năng xuất 57 tấn/ha.
+ Cây mía: Diện tích 150 ha (đạt kế hoạch), năng xuất 12.000 tấn.
+ Cây ngô: Diện tích 137,5 ha, năng xuất 55 tạ/ha (đạt kế hoạch).
- Tổng đàn gia súc, gia cầm hằng năm đạt 161.180 con (đạt 106,3%)
- Số lượng doanh nghiệp: 07 doanh nghiệp.
- Thu ngân sách đạt 62.038.823.000 đồng.
- Thu nhập bình quân đầu người đạt 57.800.000 đồng.
- Tỷ lệ đường giao thông được cứng hoá 100%.
- Tiêu chí cơ sở hạ tầng đạt tiêu chí phường được 10/13 tiêu chí.
Về lĩnh vực văn hoá xã hội:
Đảng uỷ lãnh đạo nâng cao hiệu quả hoạt động Văn hoá Thông tin, Thể dục thể thao, chú trọng công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân và nhất là đối với công tác giáo dục, Đảng uỷ đặc biệt quan tâm và vận động mọi người dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Vì vậy từ năm 2020 đến tháng 5/2023 các hoạt động văn hoá xã hội đã chuyển biến rõ rệt:
Đối với hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao: xã đã tổ chức, chỉ đạo Ban văn hoá thông tin tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các tầng lớp Nhân dân; phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội tuyên truyền sâu rộng các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên. Thực hiện có hiệu quả công tác trang trí, khánh tiết, treo băng zôn, khẩu hiệu, viết bản tin, tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh của xã.
Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã quan tâm đầu tư sửa chữa hệ thống truyền thanh của xã, vì vậy trong thời gian đại dịch Covid-19, Nhân dân trong xã đã chủ động phòng, chống dịch không để xảy ra tràn lan. Số người dân sử dụng mạng Internet tăng 4 lần so với cùng nhiệm kỳ 2015-2020. Bên cạnh đó, Đảng uỷ xã đã lãnh đạo Nhân dân đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá gắn với thực hiện Quyết định số 15/QĐ-UBND ngày 18/8/2021 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, các thôn đều triển khai thực hiện rộng rãi. Trong 3 năm toàn xã có 3.698 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hoá và 5/5 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá.
Hoạt động thể dục, thể thao, văn hoá văn nghệ phát triển sôi nổi, rộng rãi. 100% số thôn trong xã đã có sân chơi thể thao, 46% dân số thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, bóng bàn, cầu lông và câu lạc bộ thơ Khắp các thôn trong xã phong trào văn hoá, văn nghệ diễn ra sôi nổi, nhất là vào những ngày lễ, tết, kỷ niệm, v.v các thôn tổ chức giao lưu tạo không khí vui tươi, lành mạnh trong các khu dân cư.
Đối với công tác giáo dục đào tạo: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025 và Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 12/7/2022 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện về Phát triển giáo dục và đào tạo huyện Thọ Xuân giai đoạn 2022-2025 và Nghị quyết số 06-NQ/HU ngày 12/7/2022 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện về phát triển giáo dục và đào tạo huyện Thọ Xuân giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2025, Đảng uỷ chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực để đầu tư xã đầu tư 15 tỷ đồng hoàn thiện cơ sở vật chất trang thiết bị trường học. Trong hơn 2 năm nhà trường vừa thực hiện nhiệm vụ phòng chống dịch Covid-19, vừa đảm bảo nhiệm vụ dạy và học, giáo viên và học sinh các trường đã cố gắng vượt qua khó khăn nâng cao chất lượng dạy và học. Hằng năm học sinh vẫn đạt tỷ lệ lên lớp và tốt nghiệp gần 100%; có hơn 145 em đậu vào các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Đến năm học 2022-2023, cả 3 trường đều đạt trường chuẩn quốc gia; trường Mầm non được cộng nhận lại chuẩn mức độ 2, trường Tiểu học trường THCS được công nhận chuẩn lại mức độ 1.
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Đảng uỷ lãnh đạo toàn Đảng bộ và các đoàn thể chính trị xã hội phát huy vai trò của Trung tâm học tập cộng đồng, tăng cường đẩy mạnh công tác xã hội hoá học tập; xã thành lập quỹ chắp cánh ước mơ, khuyến khích, động viên Nhân dân trong xã và con em khắp mọi miền Tổ quốc chăm lo quỹ khuyến học, khuyến tài nhằm góp phần xây dựng xã hoàn thành các tiêu chí về xây dựng xã hội học tập. Đến năm 2023, 5/5 thôn và 100% các dòng họ xây dựng được quỹ khuyến học của thôn và của dòng họ. Phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và trong cộng đồng dân cư tiếp tục đi vào chiều sâu.
Công tác y tế tiếp tục nâng cao hiệu quả khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho Nhân dân đặc biệt là hoàn thành nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19. Đảng uỷ lãnh đạo Trạm y tế xã đẩy mạnh công tác truyền thông dân số - kế hoạch hoá gia đình và trẻ em, duy trì các chỉ tiêu về dân số, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy trì ở 0,25%. Các chương trình quốc gia về y tế được thực hiện có hiệu quả. Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia theo bộ tiêu chí mới.
Công tác vệ sinh môi trường ngày càng được quan tâm. Đảng uỷ ban hành Nghị quyết chuyên đề về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, trường học, khu dân cư hằng tuần, hằng tháng phải tổng dọn vệ sinh môi trường đảm bảo sáng xanh sạch đẹp.
Chính sách an sinh xã hội được thực hiện tốt. Quan tâm giải quyết kịp thời, đầy đủ các chế độ chính sách đến các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, hộ khó khăn, trẻ em mồ côi, v.v Phối hợp thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách, ốm đau, hộ bị ngập lụt, v.v Các chính sách hỗ trợ người nghèo thực hiện đầy đủ góp phần quan trọng vào công tác giảm nghèo ở địa phương.
Về quốc phòng an ninh: Ban chỉ huy quân sự xã luôn coi trọng giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự quốc phòng địa phương, nâng cao tinh thần cảnh giác không để xảy ra các điểm nóng, tình huống bất ngờ. Duy trì nghiêm túc lực lượng trực chiến, xây dựng lực lượng dân quân, lực lượng quân dự bị động viên. Công tác tuyển quân hằng năm đảm bảo hoàn thành cả về số lượng và chất lượng theo kế hoạch được giao. Phối hợp thực hiện chính sách hậu phương quân đội, chi trả chế độ theo Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho 724/812 đối tượng.
Công tác an ninh, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được ổn định, trên địa bàn xã không xảy ra các vụ trọng án. Ban chỉ đạo an ninh, trật tự và an ninh trật tự các thôn cũng như các tổ an ninh xã hội luôn luôn ổn định về số lượng. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội được kiềm chế. Đến năm 2023, 100% khu dân cư đạt tiêu chuẩn an toàn về an ninh trật tự.
Công tác thanh tra, tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo đã thực hiện đúng quy định, phối hợp với phòng, ngành Uỷ ban nhân dân huyện giải quyết đơn thư kiến nghị liên quan đến đất đai theo quy định của pháp luật, không để xảy ra các trường hợp kiện vượt cấp.
Đối với các chương trình trọng tâm: Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025, đề ra 4 chương trình trọng tâm. Sau gần 3 năm thực hiện các chương trình trọng điểm đã đạt được những kết quả:
Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, khuyến khích tích tục ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp và hàng hoá có giá trị hiệu quả kinh tế cao: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban chấp hành Đảng bộ xã đã tiếp tục triển khai Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 20 tháng 4 năm 2015 của Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, Đảng uỷ xã đã cụ thể hoá Nghị quyết của Tỉnh uỷ và ban hành Nghị quyết của Đảng bộ xã về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững; Tạo bước đột phá về tổ chức sản xuất, xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất tập trung quy mô lớn; Tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp an toàn. Đảng uỷ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân xã tổ chức vận động Nhân dân chuyển đổi, tích tụ được 30ha đất lúa có năng xuất cao; xây dựng được các trang trại, gia trại trồng cây ăn quả, vùng trà lúa giống ở các xứ đồng. Các trang trại, gia trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, cá lúa đã được hình thành, các hộ đã quy hoạch đầu tư theo công nghệ mới và theo phương châm thực phẩm sạch để đưa ra thị trường.
Chương trình phát triển ngành nghề - tiểu thủ công nghiệp dịch vụ - làng nghề gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu: Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2020-2025, xác định đây là chương trình trọng tâm. Do đó, Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển đa dạng các ngành nghề dịch vụ. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao như đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông, mương tiêu thoát nước khu dân cư; xây dựng nhà văn hoá thôn Hoa Lộc và Phong Cốc; công trình giải thảm và hệ thống điện chiếu sáng đường Lê Hoàn, đường liên thôn; xây mưới và nâng cấp, tu sửa các hạng mục công trình 3 trường trị giá hơn 60 tỷ đồng. Đến năm 2023, xã đã cơ bản hoàn thành 18/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới nâng cao và có 1 thôn đạt thôn nông thôn mới kiểu mẫu.
Chương trình nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá, xã hội gắn với bảo tồn văn hoá truyền thống, đảm bảo vệ sinh môi trường. Hoạt động văn hoá, thể dục thể thao ngày càng được quan tâm, thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia. Uỷ ban nhân dân xã chỉ đạo thực hiện tốt việc thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt một tuần 2 tuổi. Hoạt động văn hoá truyền thống phát triển mạnh. Mỗi năm có từ 93-95% hộ gia đình đạt văn hoá, 5/5 thôn giữ vững danh hiệu làng văn hoá. Công tác trùng tu, tôn tạo các di tích cách mạng được Nhân dân tham gia sôi nổi và đã hoàn thành trùng tu tôn tạo cụm di tích cách mạng.
Chương trình đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; xây dựng hệ thống chính trị thật sự vững mạnh, tăng cường công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn năng lực: với phương châm trách nhiệm kỷ cương và đoàn kết, Ban chấp hành Đảng bộ xã đã thể hiện sự dân chủ trong sinh hoạt, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, chính quyền.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc của Đảng theo Điều lệ Đảng, phát huy tinh thần và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu với tinh thần tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Thường xuyên chăm lo, củng cố các tổ chức trong hệ thống chính trị Đảng uỷ đã thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch giới thiệu các nhân sự ứng cử các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Năm 2022, Đảng uỷ lãnh đạo các Chi bộ tổ chức Đại hội thành công. Sau Đại hội các chi bộ và các tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, v.v vai trò của các tổ chức được nâng cao, mỗi cán bộ, đảng viên, tự soi, tự sửa theo 27 biểu hiện, nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Về công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị: Đảng uỷ chỉ đạo đẩy mạnh cuộc vận động Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, trong đó tiếp tục thực hiện kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị. Tổ chức quán triệt triển khai đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân 9 Nghị quyết, 3 Chỉ thị, 3 Kết luận của cấp trên nghiêm túc, kịp thời, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII) và Kết luận số 21-KL/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức lối sống, tư tưởng chính trị, biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá gắn với Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương (khoá XIII) về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Phối hợp tổ chức tốt các hội nghị, hội nghị trực tuyến. Số đảng viên tham gia đạt tỷ lệ 85% và 95% viết bài thu hoạch và 100% đảng viên đăng ký học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Công tác tổ chức bộ máy và sắp xếp cán bộ luôn được quan tâm lãnh đạo, xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ từ xã đến thôn. Đảng uỷ triển khai chỉ đạo các chi bộ, các thôn tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2022-2025 và bầu thôn trưởng 2021-2023. Công tác cán bộ thực hiện đúng theo quy trình từ khâu đánh giá, quy hoạch đảm bảo công khai, dân chủ, đúng quy định. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về chuyên môn, lý luận gắn với công tác giáo dục phẩm chất, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm trong công tác. Lãnh đạo tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thành công tốt đẹp.
Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã tham mưu cho Đảng uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra toàn khoá; phân công nhiệm vụ cho các uỷ viên chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Qua kiểm tra giám sát đã chỉ rõ những ưu điểm, khuyết điểm, yêu cầu các chi bộ, cá nhân nghiêm túc khắc phục những khuyết điểm đã được chỉ rõ. Công tác thi hành kỷ luật được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm theo đúng quy định của Đảng. Đến năm 2023, Đảng uỷ đã xử lý kỷ luật 02 đảng viên vi phạm những điều đảng viên không được làm góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật và sức chiến đấu của tổ chức Đảng cũng như đảng viên.
Công tác dân vận: Khối dân vận của Đảng uỷ và các tổ dân vận ở các thôn được kiện toàn sau khi Đại hội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ, Khối dân vận đã xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, vận động Nhân dân thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định ở khu dân cư. Trong thời gian cùng cả nước phòng chống dịch Covid-19, khối dân vận đã tham gia việc thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn toàn xã.
Đối với chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội:
Về xây dựng chính quyền: Đảng uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cho cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Kết quả đã có 100% cử tri đi bỏ phiếu, Hội đồng nhân dân xã đã bầu được 24/25 đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân đúng quy định của pháp luật . Đến tháng 5/2023, Hội đồng nhân dân đã tổ chức 5 kỳ họp chính thức và 01 kỳ họp bất thường. Các kỳ họp được chuẩn bị chu đáo về nội dung và chất lượng kỳ họp được nâng lên rõ rệt.
Uỷ ban nhân dân xã sau bầu cử Hội đồng nhân dân được kiện toàn và kịp thời xây dựng, ban hành quy chế làm việc. Trong những năm 2020-2023, Uỷ ban nhân dân xã tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện giữ vững kỷ cương, kỷ luật ở công sở, thực hiện nghiêm chế độ một cửa, chế độ tiếp dân. Tiếp tục dẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời cùng với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội tổ chức các chương trình phối hợp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, công tác chính sách, an sinh xã hội và thực hiện tốt các chỉ tiêu về chuyển đổi số.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra. Trong 3 năm (2020-2023), các đoàn thể: Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Công đoàn xã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ. Sau Đại hội, công tác cán bộ của mỗi đoàn thể được kiện toàn, bầu mới. Ban chấp hành các đoàn thể đã nỗ lực phấn đấu, đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương đồng thời làm tốt những nhiệm vụ của cơ quan cấp trên giao. Bên cạnh đó, các đoàn thể đã thực hiện tốt công tác phối hợp các nhiệm vụ trọng tâm như: Công tác phòng chống dịch Covid-19, ra mắt mô hình đảm bảo vệ sinh môi trường; mẹ đỡ đầu kết nối yêu thương; tuyến đường kiểu mẫu; đàm cưới văn minh, tang tiến bộ, Phối hợp tuần tra Nhân dân, hoàn thành chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp.
Trong 3 năm (2020-2023), mặc dù gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng với tinh thần chủ động, đoàn kết, quyết tâm cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã các mặt kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của xã Xuân Minh đã đạt kết quả tích cực. Đó là nguồn động lực để Đảng bộ và Nhân dân trong xã tiếp tục bứt phá sớm hoàn thành mục tiêu xây dựng xã đạt nông thôn mới nâng cao và tiến tới nông thôn mới kiểu mẫu.
Phát huy truyền thống quê hương, với 4 kỳ Đại hội, Đảng bộ xã Xuân Minh ngày càng khẳng định sự vươn lên mạnh mẽ của vùng quê cách mạng. Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Minh tin tưởng với những kết quả đạt được nhất là sự lãnh đạo năng động, sáng tạo của Đảng bộ xã nhất định Đảng bộ và Nhân dân sẽ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra.
1 Trích trong cuốn 50 năm hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Sử học, Hà Nội, ......, tr...........
1 Quang Hoa là làng mới được tháp bởi hai làng cũ là Yên Thọ và Phú Tình.
1 Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 29.
1 Trích trong Năm mươi năm hoạt động của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Thanh Hoá, NXB Thanh Hoá, 1980, tr. 214.
Tin khác
Tin nóng
Công khai giải quyết TTHC
SĐT: 02373545368
Email: ubndxaxuanminh@gmail.com