Lịch sử hình thành xã Xuân Minh
Lịch sử hình thành xã Xuân Minh
Đi sâu vào việc tìm hiểu cội nguồn và quá khứ của xã Xuân Minh thì thấy rằng đây cũng chính là vùng đất cổ chất chứa cả một bề dày lịch sử lịch sử của một quá trình khai phá đất đai để dựng làng, dựng xóm lịch sử của quá trình đấu tranh chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội. Không còn ngạc nhiên và suy đoán gì nữa, suốt từ làng Trung Lập, qua Xuân Minh đến Cầu Vàng, chúng ta đã tìm thấy nhiều di vật tiêu biểu của văn hoá Đông Sơn (như trống đồng dao găm hình người, và các loại đồ gốm, v.v...) cùng nhiều mộ Hán nằm rải rác trên địa phận này đã chứng tỏ rằng ngay từ thời các vua Hùng dựng nước, một bộ phận cư dân đã có mặt ở đây từ rất sớm để cư tụ và sinh sống bằng nghề trồng lúa nước. Cho nên, vào những năm đầu của công nguyên, khi bình định xong nước ta, bọn xâm lược Hán đã đến đây để cai quản và nắm chặt lấy vùng này. Mặc dù chưa có điều kiện khai quật chính thức, nhưng qua thám sát và nghiên cứu bước đầu, một số nhà khảo cổ đã đưa ra một dự đoán vùng đất này có thể thuộc vào bộ Quân Ninh của nước Văn Lang xưa.
Về mặt ngôn ngữ mà nói thì ở cả Xuân Minh và Xuân Lập, tiếng Việt cổ còn bảo lưu một cách khá đậm nét. Điều đó càng chứng tỏ tính chất lâu đời của vùng này.
Đến thể kỷ X thế kỷ bản lề và phục hưng của văn hoá dân tộc, các vùng cư trú ở trong nước, trước hết là Thanh Hoá càng có điều kiện để phát triển một cách mạnh mẽ và liên tục. Đặc biệt dưới triều Tiền Lê (989 1010), vùng Trung Lập nói hẹp và vùng Xuân Minh nói rộng ra là quê hương của Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành) người anh hùng kiệt suất của dân tộc đã có công to lớn trong việc đánh Tống bình Chiêm để giữ vững nền độc lập cho đất nước thì nhất định sẽ được giành những đặc ân và ưu ái hơn so với những vùng khác. Điều đó được thể hiện rõ rệt qua việc Lê Hoàn cho đào một con kênh đi qua vùng quê của mình (trong đó có cả Xuân Lập và Xuân Minh) để tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc canh tác và phát triển nông nghiệp ở đây.
Nếu như thời Tiền Lê, chúng ta chưa có thể biết rõ bộ mặt làng xóm ruộng đồng ở khu vực Xuân Minh phân bố cụ thể ra sao thì đến thời Lý Trần Lê, qua những bản gia phả, thần phả và địa bạ cũ của các làng còn giữ được, chúng ta lại có thể hình dung một cách sinh động về quá trình ra đời của các làng Phong Cốc, Xá Lê, Yên Thọ, Phú Tình, Thiện Lộc và Thuần Hậu. Còn riêng làng Ngọc Trung thì chắc chắn là làng có từ sớm nhất và có nhiều gắn bó với làng Trung Lập ngay từ thời Tiền Lê. Những cái tên Lai Duệ Trang, Cốc Trang (làng Phong Cốc), Hoàng Trung Trang (Ngọc Trung), Lê Trang (làng Xá Lê), v.v... càng chứng tỏ gốc rễ lâu đời của các làng này. Trước Cách mạng tháng Tám, ở mỗi làng đều có đền thờ những vị thần hoàng là những người có công trong việc dựng làng, dựng xóm. Ngay việc tìm hiểu lai lịch và gốc tích của gần 60 xứ đồng trong phạm vi của xã bây giờ cũng giúp chúng ta phần nào thấy rõ hơn quá trình khai phá đất đai để mở mang địa bàn cư trú và canh tác của nhân dân Xuân Minh trong suốt bao đời nay.
Đối chiếu trong lịch sử và các tài liệu địa chí của tỉnh nhà, cộng với việc kiểm tra thực địa, chúng ta vẫn chưa biết rõ vùng đất Xuân Minh thời Tiền Lê và Lý thuộc địa bàn của huyện nào, nhưng ở thời Trần Hồ, vùng này thuộc địa bàn của huyện Lương Giang, từ thời Lê cho đến Nguyễn lại thuộc về huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Thiên (tên phủ Thiệu Thiên mãi đến thời vua Minh Mệnh mới đổi tên lại là phủ Thiệu Hoá). Từ đó đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, Xuân Minh đều thuộc về tổng Thử Cốc, huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Hoá. Trong số các tổng của huyện Thuỵ Nguyên thì tổng Thử Cốc là lớn nhất. Tổng này có tất cả 21 làng nằm phân bố trên triền sông Cầu Chày và sông Chu như: Trung Lập, Bất Đạt (hay còn gọi là làng Bương), Ngọc Trung, Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ, Thiên Lộc, Xuân Phỗ, Phong Lai, Thọ Tân, Phong Mỹ (hay còn gọi là làng Mía), Ngọc Quang Thượng, Ngọc Quang Hạ, Cốc Thôn, Cao Phú, Phú Hậu, Long Linh Nội, Long Linh Ngoại và Căng Hạ.
Cách mạng tháng Tám thành công, hệ thống tổng được duy trì trong một thời gian ngắn. Mãi đến sau đợt bầu cử Quốc hội đầu tiên (6-1-1946), để tổ chức bầu cử hội đồng nhân dân các cấp, hệ thống tổng mới bị giải tán và thay thế vào đó là hệ thống xã. Lúc này, toàn bộ các làng của tổng Thử Cốc đều cắt chuyển về huyện Thọ Xuân và được chia ra thành 4 xã là: ái Quốc, Cao Thắng, Thọ Trường và Thọ Phú1
Sang thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thực hiện chủ trương tháp xã của trên, vào đầu năm 1947, xã Minh Nghĩa lại được thành lập trên cơ sở tháp 3 xã cũ là ái Quốc, Cao Thắng và Minh Nghĩa2. Mãi đến năm 1953, sau đợt giảm tô, xã Minh Nghĩa lại được chia nhỏ ra thành 4 xã là Xuân Minh, Xuân Lập, Xuân Lai và Xuân Tân3.
Năm 2018, thực hiện Quyết định 3110/QĐ-UBND ngày 17/8/2018 của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc đổi tên chuyển thôn thành khu phố; sát nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Xã Xuân Minh sát nhập thôn Quang Hoa (164 hộ, 582 nhân khẩu, diện tích 38,51ha) và thôn Thiên Lộc (86 hộ, 295 nhân khẩu, diện tích 17,33ha) để thành lập thôn Hoa Lộc. Các thôn của xã ổn định cho đến nay (2023).
Trong quá trình lịch sử, các làng của xã Xuân Minh lúc thì thuộc về huyện Thiệu Hoá, lúc thì thuộc về huyện Thọ Xuân, nhưng lúc nào cũng cùng đứng bên nhau trong một đơn vị hành chính (huyện, tổng, xã), do vậy mà rất gắn bó mật thiết với nhau. Hơn nữa, do ở vào khu vực địa lý tiếp cận với nhiều huyện, cho nên vốn từ lâu, vùng Xuân Minh càng có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao tiếp, quan hệ thân ái với nhiều địa phương trong, ngoài huyện. Đặc biệt, đối với những xã xung quanh như Xuân Lập, Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Xuân Lai và một số địa phương khác của Yên Định, Thọ Xuân và Thiệu Hoá thì mối quan hệ ấy lại càng gắn bó mật thiết hơn. Chính đó là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để phối hợp và phát triển phong trào cách mạng ở đây ra các vùng xung quanh, mặt khác, trong lúc khó khăn, hoặc lúc địch khủng bố thì có thể kịp thời chi viện và giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau.
Với điều kiện địa bàn và đất đai thuận lợi cho nên tốc độ tập trung cư dân ở xã Xuân Minh mỗi ngày một tăng.
Ở thế kỷ XIV, cả 7 làng chỉ có hơn 200 nóc nhà và gần một ngàn nhân khẩu thì đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã tăng lên 460 hộ và 1.730 nhân khẩu. Cho đến hiện nay, toàn xã có trên một ngàn hộ và trên 5.200 nhân khẩu. Mật độ dân số trung bình là hơn 1.000 người/km2. Đó là con số vào loại cao đối với vùng tiếp nối của trung du và miền núi. Cho nên, từ trước đến nay, ở vùng trung lưu sông Chu và sông Cầu Chày, Xuân Minh vẫn là một trong những trung tâm cư dân của huyện Thiệu Hoá (trước cách mạng) và của huyện Thọ Xuân (sau cách mạng).
Cư dân ở Xuân Minh 100% là người dân tộc Kinh. Vốn từ xưa, đây cũng là vùng có nhiều dòng họ. Có dòng họ đến trước, có dòng họ đến sau, nhưng tất cả đều chung sức, chung lòng để khai phá đất đai và dựng làng, dựng xóm để góp phần làm cho vùng đất Xuân Minh ngày một thêm trù phú và tươi đẹp.
Hiện nay, toàn xã có tất cả hơn 10 dòng họ, trong đó họ Trịnh, họ Đỗ, họ Nguyễn, họ Lê, họ Mai, v.v... là những dòng họ đến sớm và phát triển đông nhất. Mặc dù có nhiều dòng họ và nguồn gốc có khác nhau, nhưng cư dân thì vẫn đông đúc và tập trung hơn. Điều đó chứng tỏ rằng nhân dân ở đây rất đoàn kết. Trong suốt cả quá trình lịch sử, có những lần thiên tai đói kém, có những năm giặc giã hoành hành, nhưng nhân dân Xuân Minh vẫn không bao giờ bỏ làng, bỏ xóm phiêu tán đi nơi khác. Vừa sản xuất, chiến đấu và xây dựng làng xóm là đặc điểm nổi bật của người Xuân Minh. Có thể nói, làng xóm ở đây thực sự như những pháo đài kiên cố, nhưng vẫn sẵn sàng mở cửa để đón nhận những người ở địa phương khác đến để cùng sống hoà thuận bên nhau. Lịch sử hình thành và phát triển của các làng ở đây đã chứng minh điều đó. Trong thời kỳ phong kiến, một số quan lại ở tận những vùng xa như Nghệ An, Hà Tĩnh vì chán ghét và không chịu khuất phục triều đình vua quan thối nát, cho nên đã lần lượt về đây để sinh cơ lập nghiệp mãi mãi (như ở Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, v.v...). Có người vì có công với làng, với xóm, cho nên khi chết đã được nhân dân lập đền thờ.
Quá trình sống bên nhau, tình cảm đoàn kết thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân Xuân Minh được biểu hiện phong phú và vô cùng sinh động trong cuộc sống sản xuất, chiến đấu, cũng như trong sinh hoạt tinh thần.
III. TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở đây vẫn còn giữ được nhiều phong tục, tập quán truyền thống rất tốt đẹp. Đáng chú ý là các tổ chức hội phường, hội phe hình thành một cách tự nhiên từ khá lâu đời. Các hội phường, hội phe này có nhiệm vụ giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất (như cày, bừa, gặt, hái, đào mương, tát nước, v.v...), hay trong cưới xin, ma chay, làm nhà, sinh đẻ, ốm đau, hoạn nạn, v.v... Thành viên của hội phường, hội phe bao gồm tất cả những người đã đến tuổi trưởng thành trong cùng một địa phương, chứ không chỉ bó hẹp trong cùng một dòng họ.
Đó là một điều kiện thuận lợi để đến khi có Đảng lãnh đạo, họ sớm đoàn kết và đứng bên nhau trong các tổ chức cách mạng. Trong thời kỳ bí mật, Đảng ta đã thông qua hình thức này để tuyên truyền, giác ngộ và tập hợp quần chúng đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù đế quốc và phong kiến.
Cho đến hiện nay, ý nghĩa và tinh thần tốt đẹp của các hội phường, hội phe vẫn còn được duy trì và phát huy một cách cao hơn qua những bản qui ước chung của hợp tác xã để nhằm nâng cao tính cộng đồng tập thể, tình tương thân tương ái, tạo ra sức mạnh to lớn trong cuộc sống sản xuất, chiến đấu ở địa phương.
Một vấn đề thật sự có ý nghĩa là sự đoàn kết, cần cù, dũng cảm, thuần phác, cởi mở, hiếu khách và thuỷ chung đã trở thành tính cách và bản chất tốt đẹp của người Xuân Minh. Tính cộng đồng hợp tác và tình tương thân tương ái ấy không bị bó hẹp trong phạm vi một dòng họ, một làng trong xã, hoặc tổng, mà nó còn phát triển rộng ra các vùng khác ở trong, ngoài huyện. Nhân dân Xuân Minh vẫn truyền tụng nhau câu tục ngữ xưa với một cảm nhận thật ý nghĩa và sâu sắc:
Bán anh em xa, mua láng giềng gần, nhưng anh em xa không bán, láng giềng gần vẫn phải mua.
Điều này được thể hiện rõ qua tục kết chạ của các làng ở đây.
Trước Cách mạng tháng Tám, ở Xuân Minh hầu như làng nào cũng có tục kết chạ (như Phong Cốc kết chạ với làng Trung Vũ (Xuân Lập) và làng Phong Lai (Xuân Lai), làng Ngọc Trung kết chạ với làng Bùi Hạ và Ngọc Thạch (Yên Định), làng Xá Lê kết chạ với làng Bao, làng Thượng (Yên Định), làng Phú Tình với làng Ngọc Vực và Phúc Tĩnh (Yên Định), v.v...). Mục đích của việc kết chạ là nhằm tăng cường tình thân ái giữa các làng với nhau, đồng thời để tương trợ giúp đỡ nhau trong việc khó khăn hoạn nạn, hoặc trong sản xuất và bảo vệ mùa màng, v.v...
Có hai loại kết chạ: Chạ chính và chạ giải. Chạ chính là để kết nghĩa và giúp đỡ nhau một cách toàn diện về nhiều mặt trong đời sống, tình cảm, sản xuất, v.v... Còn chạ giải chỉ là để giúp đỡ nhau về một phương diện nào đó như để cùng nhau bảo vệ đồng điền, hoặc khi đi đường không bị phạt vạ, v.v...
Tục kết chạ cũng có những qui định rất chặt chẽ. Hàng năm về mùa xuân, các chạ thường tổ chức mời mọc và thăm hỏi lẫn nhau. Mỗi lần đón tiếp chạ, làng nào cũng tổ chức ăn uống, hát múa và rước hoa rất tưng bừng. Mỗi cuộc hát múa đều phải trải qua các bước: hát chào, hát mừng, hát chúc, hát tiễn, v.v... Đây là những câu hát của chạ Phú Tình với chạ Bùi Thượng và Đa Nấm (Yên Định) trong một ngày hội ngộ:
Chúc mừng quan lão chạ ta
Phơ phơ đầu bạc như hoa trên đầu
Thương nhau chẳng quản nghèo giàu
Khó khăn cùng chịu, ngọt bùi có nhau
Hoặc:
Chạ về chạ nghỉ chạ ngơi
Sang năm chạ lại sang chơi cùng làng.
Cuộc sống cộng đồng, thân ái trong làng, ngoài xã ấy ở đây không chỉ biểu hiện trong đấu tranh chống thiên nhiên, trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt xã hội, v.v... mà còn được biểu hiện cả trong sinh hoạt văn nghệ dân gian một cách vô cùng phong phú và sinh động.
Ở Xuân Minh, ngay từ xưa đã nổi tiếng là một nơi có truyền thống văn nghệ. Hồi thế kỷ X, ở làng Ngọc Trung có ông Phong Xà là người hát hay đàn giỏi ngay từ bé. Khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế thì ông được vời về kinh thành Hoa Lư để phụ trách việc hát múa trong cung điện. Sau đó, để tăng cường mối bang giao với nhà Tống, ông lại được đưa sang phục vụ trong cung đình nhà Tống. Với tài năng và đức độ của mình, Phong Xà đã chiếm được tình cảm của vua Tống nên sau đó đã được vua Tống gả con gái tên là Đào Hoa. ở Trung Quốc được một thời gian, Phong Xà đã cùng vợ trở về Việt Nam để sống bằng nghề ca công của mình tại quê hương. Khi ông chết, đã được nhân dân lập đền thờ và suy tôn là ông tổ nghề ca công. Đền thờ ông chính là đền thờ quốc tế. Hàng năm cứ vào ngày 15/11 âm lịch, tại đền thờ, nhân dân lại tổ chức ngày hội ca công múa hát để tưởng nhớ đến ông. Và ba năm một lần gọi là khoá hàng sứ, tất cả hội ca công múa hát ở khắp các vùng, huyện trong ngoài tỉnh đều về đây để thăm viếng đền thờ và tổ chức ngày hội ca công múa hát rất lớn.
Trước Cách mạng tháng Tám, các làng của Xuân Minh vẫn thường xuyên tổ chức hát bội và hát chèo. Phường bội và phường chèo ở đây không chỉ diễn ở địa phương mà còn diễn rộng ra những vùng khác. Nhưng phổ biến và thường xuyên nhất ở đây vẫn là những cuộc hát ví, hát đúm, hát trống quân và hát huê tình mà chúng ta vẫn gọi là hát ghẹo. Trước đây các phường cấy, phường gặt, phường kéo sợi, dệt vải, phường làm dắng, v.v... ở từng làng vừa làm vừa tổ chức những cuộc hát rất thú vị. Về mùa thu (tháng tám, tháng chín âm lịch), trong những đêm trăng sáng, từ làng này đến làng kia, ở gốc đa, sân đình, ở bờ sông, ngõ xóm... từng tốp nam nữ đứng hát đối đáp nhau cho đến tận đêm khuya. Những cuộc hát như thế này cũng đủ làm cho cuộc sống ở vùng quê Xuân Minh này thêm phần tươi vui và êm ái.
Qua sinh hoạt tinh thần ở đây, chúng ta càng thấy rõ người dân Xuân Minh luôn luôn có một cuộc sống lành mạnh, vui tươi, giản dị và giàu tình cảm lạc quan tin tưởng ở tương lai.
Mặc dù cuộc sống có nhiều gian nan, vất vả, nhưng nhân dân ở đây vẫn có truyền thống rất hiếu học. Trong thời phong kiến, ở các làng của Xuân Minh vẫn có những người học hành đỗ đạt cao, làm rạng danh cho làng, cho xóm như ông Mai Sỹ là người đầu tiên ở đây đậu cống sỹ, sau đó là một gia đình họ Đỗ ở làng Thuần Hậu từ bố đến con đều đỗ đạt trong những kỳ khoa cử, mà rạng rỡ nhất là Đỗ Huy Kỳ, trong một cuộc thi đình đã đậu đến chức thám hoa và được triều đình phong đến chức Hoa nhạc hầu rồi sau đó lại được cử đi sứ sang Trung Quốc; còn bố của Đỗ Huy Kỳ là Đỗ Quang Châu thi đậu khoa thi hương, hai em là Đỗ Huy Lâm và Đỗ Huy Lai cùng đậu một khoá thi hội. Tiếp đó là gia đình ông Mai Thanh, cũng có nhiều con đỗ đạt khá. Ngoài ra, ở các làng còn có nhiều người đậu đến tú tài, nhưng kiến thức lại rất rộng như các ông Mai Thế Quý, Mai Xuân Tình, Nguyễn Xuân Tường, v.v... Đó là chưa kể đến hàng loạt gia đình tuy nghèo khó nhưng vẫn quyết chí nuôi con cho thành đạt trong đường học hành và văn nghiệp.
Truyền thống hiếu học của nhân dân Xuân Minh không phải chỉ có từ thời trước mà cho đến những năm sau Cách mạng và đặc biệt là bây giờ thì truyền thống ấy lại được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Và chính truyền thống ấy đã chắp cánh cho Xuân Minh bay nhanh, bay xa trên mỗi chặng đường lịch sử và cách mạng.
IV. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN XUẤT MINH TRƯỚC NĂM 1930
Vùng đất Xuân Minh thật đáng yêu và biết mấy tự hào là thế, nhưng sống dưới chế độ cũ, nhân dân lại bị chìm đắm trong sự áp bức, bóc lột tàn bạo của bọn đế quốc thực dân và phong kiến tay sai.
Về chính trị, thực dân Pháp đã xây dựng một bộ máy cai trị rất chặt chẽ từ trên xuống dưới nhằm thâu tóm quyền lực vào tay mình, đồng thời duy trì chế độ phong kiến, tạo ra bộ máy bù nhìn tay sai để làm chỗ dựa cho chính sách độ hộ và khai thác thuộc địa của chúng. Chính quyền phong kiến địa phương từ phủ, huyện, tổng cho đến làng được củng cố không ngừng cùng với sự ra đời ngày một nhiều của tầng lớp địa chủ mới là công cụ lợi hại trong việc áp bức, bóc lột nhân dân.
Riêng huyện Thiệu Hoá là huyện kiêm lý của phủ thì bộ máy cai trị lại càng được thực dân Pháp chú ý tăng cường hơn.
Trong số các tổng của huyện, tổng Thử Cốc là lớn nhất. ở tổng có chánh, phó tổng, ở làng có lý trưởng và cả hội đồng kỳ mục gồm hương kiểm, hương mục, hương bản, hương bạ1, v.v... ở những làng lớn còn có thêm cả chức phó lý để giúp việc lý trưởng, đến khi phong trào cách mạng phát triển thì chúng còn đặt thêm các chức xã đoàn, kiểm thú, tuần chấp, hương nông, hương binh và đại hào mục. Đó là chưa kể đến cả một hệ thống tuần phiên và điếm canh chi chít nhằm khống chế, kiểm soát việc đi lại của nhân dân. Đối với tổng Thử Cốc nói chung và các làng của Xuân Minh nói riêng là nơi có phong trào cách mạng rất mạnh, cho nên năm 1941, thực dân Pháp còn điều một lực lượng binh lính tinh nhuệ về đóng đồn tại làng Phong Cốc nhằm dập tắt ngọn lửa cách mạng ở vùng này, đồng thời để khống chế phong trào cách mạng của cả ba huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá và Yên Định. Không những thế, tại các làng, chúng còn sử dụng và mua chuộc các phần tử thuộc tầng lớp trên làm mật thám, tay sai để rình bắt cán bộ cách mạng.
Sự cấu kết giữa đế quốc và phong kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa, điều đó thể hiện rất rõ ở Xuân Minh. Thông qua tầng lớp tay sai ở địa phương, thực dân Pháp đã dùng rất nhiều thủ đoạn hiểm độc để gây chia rẽ hằn thù trong nhân dân (giữa làng này với làng kia, giữa dòng họ lớn với dòng họ bé, giữa người chính gốc với người ngụ cư, v.v...) hòng phá vỡ khối đoàn kết ở trong làng và trong tổng, thậm chí sự chia rẽ ấy còn bị chúng khoét sâu ra cả phạm vi huyện khác. Không những thế, chúng còn đề cao sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa kẻ giàu với người nghèo, giữa người có học và không có học, giữa các làng văn, làng võ, làng giáp, làng hộ với nhau, v.v... đồng thời khuyến khích các tập tục phong kiến lạc hậu (lên nhiêu, lên lão, tranh ngôi, bán thứ, phạt vạ, cúng tế, đình đám, hội hè, ma chay, đồng bóng, v.v...) để mọi người sao nhãng việc sản xuất và quên chống đối lại chúng. Thâm độc và xảo quyệt hơn, thực dân Pháp còn tìm cách thâm nhập và phát triển tôn giáo vào các làng của Xuân Minh để ru ngủ mọi người, đồng thời để reo rắc trong nhân dân tư tưởng cầu an, định phận, cái gì cũng phó thác cho số mệnh. ở đây, làng nào chúng cũng cho xây dựng nhiều đền chùa, miếu mạo. Đặc biệt năm 1935, chúng còn tìm cách phát triển đạo thiên chúa giáo và xây dựng nhà thờ ở đây, nhưng do sự phản ứng và đấu tranh của nhân dân, cho nên âm mưu đã bị thất bại.
Về kinh tế, ngay từ khi mới đặt chân đến tỉnh ta, thực dân Pháp đã cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến để thực hiện những chính sách kinh tế hết sức hà khắc và phản động.
Ở Xuân Minh cũng như các vùng quê khác, thực dân Pháp đã mặc nhiên để cho giai cấp địa chủ phong kiến tìm cách chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.
Theo địa bạ cũ, tổng số ruộng đất trong 7 làng của Xuân Minh có tất cả là 760 mẫu. Nhưng trong số đó thì giai cấp địa chủ, phú nông đã chiếm mất 70%. Ruộng công điền công thổ chiếm gần 10% (64 mẫu), còn nông dân chỉ có hơn 20%. Có thể nói, địa chủ, phú nông ở Xuân Minh chiếm hữu ruộng đất tuy không nhiều so với địa chủ, phú nông ở các nơi khác, nhưng số lượng lại nhiều, cho nên tỷ lệ chiếm hữu như vậy là rất cao. Số nông dân không có ruộng đất phải đi làm thuê, cuốc mướn cho địa chủ khá đông. Ruộng đất mầu mỡ và gần làng hầu hết là của địa chủ, phú nông, còn những nơi xa, cằn cỗi và khó làm đều là của nông dân. Với tình hình ruộng đất như vậy cũng đủ để cho chúng ta thấy rõ sự phân hoá giai cấp ở đây sâu sắc đến mức độ nào.
Với số ruộng đất ít ỏi như vậy, nhưng nhân dân Xuân Minh lại còn bị bòn rút kinh người bởi chính sách thu mua nông sản (lúa, bông, lạc) rất rẻ mạt của thực dân Pháp. Không những thế, nhân dân ở đây còn phải chịu biết bao gánh nặng về thuế má, về phu phen tạp dịch, v.v...
Về thuế má, trước hết phải kể đến thuế thân (hay còn gọi là sưu) là một thứ thuế vô lý và tàn bạo nhất mà thực dân Pháp đã cho thi hành ngay từ thời kỳ đầu mới xâm lược để đánh vào đầu người từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt giàu nghèo, đã làm cho nhân dân Xuân Minh vô cùng điêu đứng và khổ sở. Lúc đầu, thực dân Pháp cũng chia thuế thân thành một số loại cao thấp khác nhau, nhưng đến năm 1921, chúng lại đưa nhất loạt thuế thân ở mức 2đ,50 (theo Nghị định ra ngày 29-12-1920). Như vậy, thực chất chỉ có quyền lợi của tầng lớp trên là được bảo vệ, còn nông dân mặc dù không có, hoặc có ít ruộng đất cũng vẫn nai lưng chịu một suất thuế ngang với bọn nhà giầu nhiều ruộng đất. Lúc đó, một đồng bạc Đông Dương giá trị bằng một tạ thóc. Ngoài suất thuế thân đã qui định, những người mang thẻ1 còn phải nộp thêm cả khoản thuế ngoại phụ và thuế chi thu hàng xã. Thành ra, cộng thêm với những khoản này thì mỗi suất thuế thực chất phải nộp lên đến 3đ,20 hoặc 3đ,50. Năm 1935, do đấu tranh của nhân dân, thực dân Pháp đã giảm 10% thuế thân, nhưng lại tăng 15% thuế ngoại phụ, cho nên thực tế cũng không giảm được bao nhiêu. Đó là chưa kể đến khoản chi thu hàng xã do Lý hương tự ý định ra để đút túi, lòng tham của chúng càng nhiều bao nhiêu thì dân tình càng khổ bấy nhiêu. Năm 1939, do nhu cầu chiến tranh, thực dân Pháp lại tăng thuế bằng cách đặt thành 14 hạng, hạng thấp nhất là 1đ, mười hai hạng trên mức 2đ,50 và hạng cao nhất là 15 đồng (ở Xuân Minh loại này không có).
Ngoài thuế thân ra, nhân dân Xuân Minh còn phải đóng góp nhiều khoản thuế vô lý khác như thuế ruộng (thuế điền), thuế nhà (thuế thổ trạch), thuế chợ, thuế trâu bò, thuế dệt vải cùng nhiều loại đảm phụ, công trái, lạc quyên, v.v... Chỉ tính riêng về thuế dệt vải thì mỗi khung cửi đã phải nộp một năm 3 đồng, còn một sa kéo sợi cũng phải nộp 2đ,50. Còn về thuế ruộng thì chúng phân ra ba loại nhất, nhị, tam đằng điển để định mức thuế, nhưng mỗi mẫu cũng phải nộp tương đương với một suất sưu (từ 2 đến 3 đồng). Từ năm 1932 trở về trước, thuế ruộng nạp chỉ căn cứ vào địa bạ cũ, nhưng từ đó về sau, để đảm bảo chắc chắn quyền sở hữu mảnh ruộng đó, nhân dân Xuân Minh lại phải mua 0đ,25 một trích lục cho mỗi thửa ruộng.
Một điều rất tai hại cho nông dân là sưu thuế đều thu bằng bạc Đông Dương, cho nên cứ mỗi đợt sưu thuế, đồng bạc cũng biến thành một thứ hàng hoá lên xuống rất nhanh. Lúc bình thường, mỗi đồng bạc Đông Dương đổi được 5 quan tiền, đến lúc nộp sưu thế lại tăng lên 8 quan, trong khi đó giá lúa lại rất hạ (từ 4-5 quan tiền chỉ mua được một gánh lúa). Do đó, bọn địa chủ và nhà giàu lại nhân cơ hội này tung tiền ra đầu cơ tích trữ lúa và buôn bán tiền, làm cho đời sống nông dân càng khánh kiệt lớn.
Năm nay qua năm khác, chế độ thuế nghiệt ngã đã trở thành mối đe doạ khủng khiếp và thường xuyên đối với người dân Xuân Minh. Rất nhiều người đã khổ sở điêu linh và bị hành hạ đủ đường bởi không có tiền nạp thuế; ruộng đất và tài sản trong gia đình có thể bị bọn chức dịch tịch thu, hoặc phải đem ra bán với một giá rẻ mạt, thậm chí có người còn bị đánh đập và bị bắt giam.
Khi Pháp đầu hàng Nhật, cũng như các địa phương khác, nhân dân ở đây còn phải chịu tình cảnh một cổ, hai tròng áp bức, và gánh nặng về thuế má lại càng khủng khiếp hơn.
Bên cạnh gánh nặng về thuế má, nhân dân Xuân Minh còn bị tra tấn bởi chế độ phu phen, tạp dịch hết sức hà khắc và nặng nề. Đó là một điển hình về lối bóc lột không công của thực dân Pháp. Những người đến tuổi mang thẻ thân, mỗi năm phải đi phu hai lần (mỗi lần từ 10-15 ngày). Họ phải làm việc cực nhọc, vất vả suốt ngày dưới trời mưa nắng và giá rét, tiền gạo, thức ăn phải tự túc hết, đã thế lại còn bị chửi mắng và roi vọt như trâu ngựa. Khi anh em phu ở trong huyện và tỉnh đấu tranh mạnh thì thực dân Pháp lại đặt ra chế độ làm khoán rất hà khắc. Cho nên, cứ sau mỗi đợt phu, mọi người đều kiệt sức. ở Xuân Minh, chỉ có gia đình bọn chức dịch, địa chủ và nhà giàu có tiền của để đút lót bọn tổng, lý là không phải đi phu, còn tuyệt đại bộ phận dân nghèo thì cứ phải nai lưng ra mà làm. Tình cảnh đó thật bi thương và cay đắng.
Chế độ cho vay lãi cũng là mối tai hoạ lớn đối với dân nghèo Xuân Minh. ở đây, bọn kỳ hào chức dịch và địa chủ làm giàu bằng cách cho dân nghèo vay tiền, vay thóc với tỷ lệ lãi cắt cổ.
Có ba hình thức cho vay nặng lãi: vay tiền phải trả lãi bằng thóc (gọi là chế độ mua thóc non), và một loại cho vay thóc trả thóc (gọi là chế độ thả thóc thu thóc) thì với số lãi một thành hai. Riêng về chế độ thả tiền thu thóc thì có hai loại:
- Một loại phải hoàn luôn cả vốn lần lãi thì phải chịu số tiền là 100%. Ví dụ vay 1 đồng thì phải trả là 2 tạ thóc, nếu không trả được thì sang vụ sang năm phải trả thành 4 tạ.
- Một loại chưa phải hoàn ngay vốn với mức lãi là 50%. Ví dụ vay 1 đồng thì số lãi phải trả là 50 kg thóc, nếu không trả được thì trong vụ tới phải chịu gấp đôi và cộng với số lãi mới, đó là chưa kể đến 1 đồng vẫn còn phải nợ.
Với hình thức cho vay nặng lãi này mà bọn chức dịch, địa chủ, nhà giàu mỗi ngày một giàu có hơn, còn dân nghèo Xuân Minh thì mỗi ngày một thêm điêu đứng, sống dở chết dở. Năm này qua năm khác, lãi mẹ đẻ lãi con và cứ thế chồng chất mãi lên cuộc đời của họ. Nhiều gia đình vì chỉ lo một suất sưu, hoặc lo một đám ma, đám cưới, v.v... phải đi vay nợ mà lâm vào cảnh bán ruộng, bán vườn, bán con, bán tài sản để đi làm thuê cuốc mướn, hoặc phải rời làng đi tha phương cầu thực, hay vào làm ở các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy của đế quốc để kiếm một đồng lương rẻ mạt, sống lần hồi cho qua ngày. Một số người ra đi mà không có ngày trở lại. Trước Cách mạng tháng Tám, toàn xã có 75 gia đình phải bán ruộng (67 mẫu), 38 gia đình phải bán con và 149 người phải rời làng ra đi để kiếm kế sinh nhai, nhưng chỉ có 6 người trở về và 52 người bị mất tích.
Nói chung, chính sách kinh tế phản động của thực dân Pháp đã làm cho đời sống của nhân dân Xuân Minh bị bần cùng và điêu đứng cao độ. Hàng năm, người dân ở đây chỉ lo các khoản đóng góp cho bọn đế quốc và phong kiến tay sai cũng đủ khốn khổ thì còn nói gì đến chuyện đủ ăn. Cái cảnh gác hái thì treo niêu diễn ra thật thương tâm đối với mọi gia đình. Hầu hết số người trong làng đều phải đi cấy rẽ, làm thuê, lấy củi, đốt than, làm dắng, v.v... mang ra chợ bán để lần hồi sống cho qua bữa. Số người đi làm công nhân thời vụ ở các đồn điền Phúc Địa, Vạn Lại, Bát Soạn và một số nhà máy, hầm mỏ ở những nơi xa khác cũng khá đông. Riêng ở các đồn điền, công việc rất nặng nhọc và vất vả, nhưng tiền công lại quá rẻ mạt. Bọn chủ đồn điền chi trả cho đàn ông mỗi ngày trên dưới 20 xu, đàn bà dưới 15 xu, còn trẻ em thì chỉ được trả từ 5 đến 10 xu, đã thế tiền công còn có thể bị cúp phạt nếu để xảy ra điều gì sai sót. Với tình cảnh và điều kiện sống như vậy, cho nên nhân dân Xuân Minh ngay từ đầu đã có nhiều quan hệ gắn bó với giai cấp vô sản ở trong tỉnh.
Thuế má, phu phen, cho vay cắt cổ và bòn rút tận xương chưa đủ, thực dân Pháp còn dở những ngón đòn hết sức tàn bạo và trắng trợn. Năm 1941, khi đưa lính về đóng đồn ở Xuân Minh, chúng đã mặc sức đốt phá và cướp đoạt tài sản của nhân dân. Chúng bắt nhân dân, nhất là những gia đình có người thoát ly hoạt động cách mạng phải nộp lương thực, trâu bò, lợn, gà... để mời binh lính của chúng ăn uống hết ngày này qua ngày khác thật cơ cực. Thời kỳ Nhật đảo chính Pháp, chúng còn bắt nhân dân nhổ lúa để trồng bông và thực hiện chính sách thu mua cưỡng bức rất phát xít, cho nên đã dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng là nạn đói khủng khiếp của năm 1945 diễn ra chưa từng thấy, làm cho quần chúng nông dân vô cùng điêu đứng.
Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 1918) và đại chiến thế giới lần thứ 2 (1939-1945), thực dân Pháp còn bắt ép nhân dân Xuân Minh đi lính để làm bia đỡ đạn cho chúng. Trong cả hai đợt chiến tranh, toàn xã có hơn 20 người bị bắt ép đi lính, phần lớn đều đã bỏ mạng ở nơi đất khách quê người.
Dưới chế độ thống trị của đế quốc, phong kiến, nhân dân Xuân Minh không chỉ khổ sở về vật chất, đau đớn về thể xác, mà còn bị thiếu thốn và đe doạ về tinh thần. ở đây nhân phẩm con người bị chà đạp, quyền tự do tối thiểu cũng bị ngăn cấm. Tuy vậy, trong xã hội, đặc biệt thương tâm vẫn là người phụ nữ. Đó là một tầng lớp bị đoạ đầy, đau khổ và bị khinh rẻ nhất. Họ không có quyền làm người, sự bình đẳng với nam giới là điều không hề có. Trong cả cuộc đời, họ chỉ chịu toàn những cảnh đắng cay, khổ nhục. Cho nên, dưới chế độ đế quốc, phong kiến, không phải riêng Xuân Minh, mà trong toàn quốc, vấn đề giải phóng phụ nữ vẫn là một điều cấp thiết.
Về văn hoá xã hội, thực dân Pháp đã thi hành nhiều chính sách thâm độc, quỷ quyệt, nhằm giam cầm nhân dân trong ngục tối. Chính sự khai hoá văn minh của chúng đã làm cho 95% dân số ở Xuân Minh bị mù chữ. Trong thời kỳ thuộc Pháp, cả tổng Thử Cốc mới có một trường sơ học, còn ở huyện mới có một trường tiểu học. Mãi đến năm 1932, chúng mới đồng ý cho mở một trường dạy chữ quốc ngữ (mà lúc đó vẫn gọi là hương trường) ở làng Xá Lê với một thày giáo và 32 học sinh. Trường học ở đây chủ yếu là giành cho con em bọn chức dịch, hoặc những nhà quyền thế và giàu có, còn tuyệt đại bộ phận con em nhân dân lao động vì quá nghèo túng mà phải thất học. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cả xã Xuân Minh chỉ có 75 người biết chữ quốc ngữ, trong đó có 11 người đạt trình độ sơ học yếu lược, 6 người đậu Prime và 4 người trên trình độ Prime. Một số gia đình giàu có thì đón thầy về dạy chữ Hán cho con cái cốt để lo việc cúng bái tổ tiên cho đúng phép.
Ở Xuân Minh, sự khai hoá văn minh của thực dân Pháp còn làm cho tính mạng con người luôn luôn bị đe doạ. Có tổng không có nổi một y tá hoặc một bà đỡ. Nhân dân ốm đau không hề biết thuốc men là gì, tất cả chỉ tin vào việc bói toán, lễ bái và uống tàn hương nước lã. Hàng loạt gia đình đã phải mất đi những người thân yêu nhất. Có lần dịch tả, chỉ trong một ngày, làng Ngọc Trung đã có hơn 20 người bị chết. Do tình trạng đói kém, khổ cực và ăn ở lại mất vệ sinh, cho nên nạn hữu sinh vô dưỡng đã diễn ra một cách phổ biến. Có nhiều người đẻ tới năm, bảy lần mà không nuôi được đứa con nào. Tình trạng bệnh tật, ốm đau và thiếu dinh dưỡng đó đã được phản ánh đầy đủ qua câu ca bi thảm ở làng Phú Tình:
Phú Tình ơi hỡi Phú Tình
Cái bụng đi trước, cái mình đi sau!
Phải nói rằng, sự đè nén áp bức, bóc lột của bọn đế quốc và phong kiến tay sai là nguyên nhân chủ yếu làm cho bộ mặt làng xóm của xã Xuân Minh trước Cách mạng tháng Tám trở nên rất tiêu điều và sơ xác. ở đây hầu hết là những nhà tranh thấp bé và lụp sụp, còn một số nhà ngói sân gạch mọc lên là của bọn chức dịch, địa chủ.
Là một vùng trồng bông và có nghề dệt vải mà nhân dân Xuân Minh lại không có đủ chăn, màn và quần áo. Ngày sương gió rét, phải nằm ổ rơm. Cuộc đời cơ cực không sao kể hết. Đã thế, thực dân Pháp lại còn khuyến khích nạn rượu chè, cờ bạc để đầu độc mọi người. Một mặt cấm nhân dân nấu rượu, nhưng chúng lại bắt mọi người phải tiêu thụ rượu cồn của chính quốc. Nạn rượu chè, cờ bạc sản phẩm của chế độ thực dân, phong kiến cũng là nguyên nhân gây ra sự đau khổ và ly tán cho nhiều gia đình, có người vì lâm vào chuyện này mà phải bán vợ, đợ con, hoặc đi biệt sứ, v.v...
Nói tóm lại, sự bóc lột của đế quốc, phong kiến ở Xuân Minh đã làm cho các tầng lớp dân nghèo ngày càng nghèo khổ, còn những kẻ làm tay sai cho đế quốc thì mỗi ngày một giàu có hơn. Do đó, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc quyện chặt với nhau. Trong đó, mâu thuẫn dân tộc ngày càng nổi bật lên. Chính vì thế mà nhân dân Xuân Minh đã sớm nhận thức được rằng đối với mỗi dân tộc, mất nước là mất tất cả.
Chính sự thống trị, áp bức, bóc lột và sự khinh miệt dân tộc ấy của bọn đế quốc và phong kiến tay sai đã gây nên lòng căm thù sâu sắc trong nhân dân. Sức mạnh căm thù, đó là nguồn gốc của sự nổi dậy của phong trào nhân dân chống lại bọn cướp nước và bọn bán nước, đồng thời đó cũng là một điều kiện thuận lợi để Đảng bộ tỉnh ta sớm chọn nơi đây làm một trong những nơi đứng chân quan trọng trong suốt thời kỳ hoạt động bí mật (1930-1945).
Trong suốt cả quá trình đấu tranh chống đế quốc xâm lược và bè lũ phong kiến tay sai, bằng sự giác ngộ về ý thức dân tộc, giai cấp, bằng lòng quả cảm kiên cường và sự quật khởi vùng lên, nhân dân Xuân Minh đã liên tục viết lên những trang sử vàng hết sức vẻ vang, chói lọi.
Ngay từ những ngày đầu tiên, khi thực dân Pháp mới đặt chân lên đất nước ta, nhân dân Xuân Minh đã đứng lên góp sức mình vào phong trào yêu nước hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Năm 1885, nghe theo chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, Đỗ Tri Phương một văn thân yêu nước ở làng Thuần Hậu đã dựng cờ tập hợp lực lượng nhân dân ở các làng của xã Xuân Minh và các vùng xung quanh để chuẩn bị mọi điều kiện tham gia vào phong trào chống Pháp xâm lược của nhân dân tỉnh ta lúc đó.
Đỗ Tri Phương được các nhà lãnh đạo văn thân Thanh Hoá phong chức quản chương và nhận trách nhiệm chiêu mộ nghĩa quân từ làng Hoành, làng Giành ngược lên Hữu Bái, Đa Nê, Cự Nẫm (Yên Định) và phía bên này là từ Quần Tín, Tam Lộng trở lên đến Quần Kênh, Xuân Hưng, Xuân Thắng, Xuân Phú (Thọ Xuân), rồi từ Phố Cống (Ngọc Lặc) lại kéo về đến Thọ Xương, Đầm, Lược, Yên Lãng (Thọ Xuân) và toàn bộ tổng Thử Cốc (Thiệu Hoá).
Làng Thuần Hậu trở thành một căn cứ tập kết lực lượng của nghĩa quân. Tất cả các thợ rèn lành nghề ở nhiều địa phương đều được huy động về đây để rèn sắm vũ khí. Vườn Trũng thực sự như là một công xưởng lớn sản xuất vũ khí của nghĩa quân. Gần 300 người được phân công chuyên trách chỉ có nhiệm vụ này. ở đây còn có cả một bể chứa nước lớn có thể chứa được hàng mấy trăm gánh nước, đủ phục vụ ăn uống cho hàng ngàn người.
Đỗ Huy Ven (con của Đỗ Tri Phương) được giao chức Chánh lĩnh binh, cùng với người em vợ là Mai Chưng (thường gọi là Cai Tô) và Đỗ Tánh (Xá Lê) chuyên trách việc huấn luyện nghĩa quân. Các ông Đội Thiệu, Điển Lô (Phong Cốc), Lê Văn Giản (Phú Tình), Trịnh Văn Lê, Trịnh Văn Thấu, Trịnh Văn Khoan... (Ngọc Trung), v.v... ngoài việc tập hợp lực lượng nghĩa quân ở trong làng, còn có trách nhiệm huy động nhân dân tiếp tế hậu cần và lương thực.
Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, con số nghĩa quân đã lên đến trên một ngàn người. Đến giữa năm 1886, thực hiện quyết định của hội nghị các nhà lãnh đạo sĩ phu, văn thân yêu nước của tỉnh Thanh Hoá ở Bồng Trung (Vĩnh Lộc), một bộ phận nghĩa quân ở đây được lệnh kéo xuống xây dựng và chiến đấu bảo vệ cứ điểm Ba Đình (Nga Sơn) một căn cứ quan trọng do Phạm Bành và Đinh Công Tráng chỉ huy. Còn bộ phận ở lại có trách nhiệm huy động thêm lực lượng ở đây và các vùng xung quanh để sang phối hợp với Hà Văn Mao xây dựng hệ thống cứ điểm phòng ngự Mã Cao (ở phía tây và tây bắc của huyện Thọ Xuân và Yên Định).
Trong những ngày ở Ba Đình, các nghĩa quân của Xuân Minh cùng các chiến sỹ Cần vương ở đó đã nêu cao khí tiết kiên cường, bất khuất và chiến đấu rất anh dũng, làm cho chính kẻ thù là thực dân Pháp cũng phải ngạc nhiên và kính phục. Sau những lần giáng trả cho thực dân Pháp những đòn chí tử, toàn bộ nghĩa quân Ba Đình đã mở một đường máu để phá vòng vây rút lên căn cứ Mã Cao, củng cố lại lực lượng để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.
Từ đó, khu vực Xuân Minh và tổng Thử Cốc đã trở thành một căn cứ hậu phương rất lợi hại cho nghĩa quân ở căn cứ Mã Cao. Chính vì vậy mà sau khi tập trung một binh lực khá lớn để tấn công Mã Cao hòng cứu vãn nền thuộc địa... đang bị đe doạ nghiêm trọng, thực dân Pháp đã chiếm nghè Phú Tình Cầu Vàng để đóng đồn nhằm khống chế và cắt đứt sự tiếp tế của căn cứ hậu phương này đối với nghĩa quân. Hàng ngày, từ đồng Quả Bạc (giáp sông Cầu Chày), bọn chúng đã liên tiếp bắn phá vào các làng Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, v.v... để uy hiếp. ở đây, cũng đã diễn ra nhiều cuộc chiến đấu chống trả lại của nhân dân Xuân Minh, làm cho chúng không thể nào tiến được vào làng. Sau đó, thực dân Pháp đã tập trung một binh lực lớn với quyết tâm tiêu diệt bằng được căn cứ hậu cần quan trọng này. Toàn bộ làng trại Ông Tăng (Thuần Hậu) đã bị triệt hạ và đốt phá hoàn toàn. 12 nghĩa quân ở làng Phong Cốc bị địch bắt mang về chôn sống tại Cầu Vàng.
Trong khi đó, cuộc chiến đấu của nghĩa quân ở hệ thống cứ điểm Mã Cao vẫn tiếp tục diễn ra rất quyết liệt. Mặc dù gây cho địch nhiều thiệt hại nghiêm trọng, nhưng do tương quan lực lượng và vũ khí không cân sức, ban lãnh đạo nghĩa quân đã quyết định cho toàn bộ lực lượng vừa chiến đấu vừa lần lượt rút khỏi hệ thống cứ điểm Mã Cao để tiếp tục hoạt động ở miền tây Thanh Hoá.
Như vậy, với bối cảnh chung của phong trào chống Pháp xâm lược trong cả nước (hồi cuối thế kỷ XIX), phong trào vũ trang của nhân dân Xuân Minh nói riêng và Thanh Hoá nói chung mặc dù bị thất bại, nhưng vẫn được ghi nhận hùng hồn về truyền thống yêu nước, đoàn kết và kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm trong lịch sử.
Sau khi phong trào Cần Vương bị dập tắt thì vào những năm đầu của thế kỷ XX, các phong trào yêu nước mang tính chất dân chủ tư sản đã xuất hiện và dần dần ảnh hưởng đến tỉnh ta, trong đó có Xuân Minh. Nhưng nhìn chung, sự tác động của những ảnh hưởng đó chỉ làm cho phong trào nhân dân ở tỉnh ta phát triển một cách rời rạc, lẻ tẻ nên cuối cùng vẫn đi vào trình trạng bế tắc và thất bại. Tuy vậy, những phong trào đó vẫn là những tiền đề thuận lợi cho thời kỳ cách mạng mới bắt đầu từ sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Và những trang sử vẻ vang, chói lọi của Xuân Minh cũng thực sự bắt từ đó.
CHƯƠNG 2
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH TỪ NĂM 1930 ĐẾN 9/1945
I. SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÂN VIỆT CÁCH MẠNG ĐẢNG MỘT TỔ CHỨC TIỀN THÂN CỦA ĐẢNG TẠI XUÂN MINH (1925-1929)
Từ năm 1925-1926, giữa lúc phong trào yêu nước đang diễn ra sôi nổi với hai cuộc vận động đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh, rồi sau đó lại chìm đi vì sự bế tắc về đường lối thì ở tỉnh ta, qua đường dây liên lạc với các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, ánh sáng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917) và đường lối cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc đã dần dần được truyền đến làm thay đổi hẳn nội dung, cục diện phong trào. Trên cơ sở đó mà các tổ chức tiền thân của Đảng bộ Thanh Hoá lần lượt ra đời như Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và Tân Việt cách mạng Đảng1.
Trong bối cảnh lịch sử chung của tỉnh nhà, tại Xuân Minh vùng giáp gianh và gạch nối của ba phủ huyện lớn như Thọ Xuân, Thiệu hoá, Yên Định; những luồng tư tưởng cách mạng mới cũng có điều kiện thuận lợi để thâm nhập và ảnh hưởng một cách nhanh chóng. Chính ở đây, hai thanh niên yêu nước đầu tiên sớm được tiếp thu, bồi dưỡng chủ nghĩa mác Lê Nin về đường lối cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc là hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ.
Cùng sinh ra và lớn lên vào những năm đầu của thế kỷ XX1, ở làng Phong Cốc, tổng Thử Cốc (Thiệu Hoá) trong hai gia đình nhà nho yêu nước, mà bố và mẹ đều có tham gia phong trào Cần Vương trước đó, cho nên cả hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã sớm được bồi dưỡng, giáo dục tinh thần yêu nước và lòng căm thù thực dân Pháp xâm lược.
Sau khi học xong ở trường tổng, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đều lần lượt sang học ở trường Pháp Việt của phủ Thọ Xuân. Tại đây trong những năm học tập, hai đồng chí đã được tiếp xúc với nhiều sách báo tiến bộ và được gặp gỡ những người yêu nước của phủ Thọ Xuân. Đến cuối năm 1925, qua sự giới thiệu của thầy giáo Nguyễn Tam Khôi, đồng chí Nguyễn Văn Hồ và Nguyễn Xuân Thuý lại được tiếp xúc, gặp gỡ với một số nhà yêu nước có tên tuổi của tỉnh ta khi đó, và được nghe kể về nước Nga, về tình hình trong nước, ngoài nước, v.v... Cho nên, cũng bắt đầu từ đó mà hai đồng chí đều rất tâm huyết và có chí hướng làm cách mạng để đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược.
Tháng 4-1927, sau một thời gian được rèn luyện, thử thách, hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã vinh dự được kết nạp vào tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng của tỉnh nhà tại làng Ngô (Thiệu Hoá). Đó là hai thanh niên học sinh trẻ đầu tiên của tổng Thử Cốc được kết nạp vào tổ chức này2. Sau đó, đến tháng 5-1927 hai đồng chí lại được Đảng bộ Tân Việt Thanh Hoá cử vào Vinh dự lớp huấn luyện do tổng bộ Tân Việt mở trong thời gian 5 tháng để học tập đường lối và lý luận cách mạng.
Tháng 10-1927, từ lớp huấn luyện trở về Thanh Hoá, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ được Đảng bộ Tân Việt tỉnh giao nhiệm vụ về các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định tuyên truyền, giác ngộ đường lối cách mạng và phát triển đảng viên mới. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của Tân Việt cách mạng Đảng đã được xây dựng nhanh chóng ở các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung, rồi lan sang các làng Phong Lai, Yên Lãng, Phúc Bồi... (Thọ Xuân) và Phúc Tĩnh (Yên Định), v.v... Riêng ở Xuân Minh, tính đến giữa năm 1928, cơ sở Tân Việt đã được hình thành với 7 đảng viên mà tất cả đều thuộc về tầng lớp thanh niên trẻ giàu lòng yêu nước1.
Mùa hè năm 1928, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ lại tiếp tục được đi dự lớp huấn luyện do tỉnh bộ Tân Việt mở tại Lò Chum (thị xã Thanh Hoá) trong thời gian 3 tháng. Sau lớp huấn luyện này, cả hai đồng chí đều được bổ sung vào ban chấp hành Tỉnh bộ Tân Việt.
Đến cuối năm 1928, sau khi đã kết nạp được thêm nhiều đảng viên trẻ và có mối quan hệ ngày càng mật thiết với tổ chức Thanh niên, đảng bộ Tân Việt Thanh Hoá đã tổ chức một cuộc hội nghị đại biểu tại Lò Chum, thị xã để đề ra phương hướng bồi dưỡng, huấn luyện đảng viên theo đường lối chủ nghĩa Mác Lê nin và kiện toàn lại ban chấp hành tỉnh bộ. Đây là bước tiến mới của tổ chức Tân Việt Thanh Hoá. Trong hội nghị này, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã vinh dự được cử chức Bí thư và đồng chí Nguyễn Văn Hồ được cử chức Uỷ viên thường trực của tỉnh bộ Tân Việt2. Từ đó, tổ chức Tân Việt Thanh Hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, tầng lớp đảng viên trẻ thì chuyển biến tích cực theo lập trường của chủ nghĩa Mác Lê nin và theo đường lối của đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Ở Xuân Minh, vào đầu tháng 2-1929, cơ sở Tân Việt của các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung và Xá Lê đã tổ chức một cuộc hội nghị tại nhà đồng chí Trịnh Huy Phan (Ngọc Trung) đã vạch ra phương hướng hoạt động mới với những nội dung chủ yếu như sau:
- Tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê nin và kết nạp thêm đảng viên mới ở các làng trong và ngoài khu vực.
- Vận động nhân dân đấu tranh chống đồi phong bài tục, hạn chế sự bóc lột của đế quốc và tay sai.
- Vận động học chữ quốc ngữ và xây dựng quĩ cho tổ chức, v.v...
Thực hiện nội dung của hội nghị này, các đảng viên Tân Việt đã tích cực đi sâu vào quần chúng để tuyên truyền, vận động mọi người học chữ quốc ngữ, đọc sách báo tiến bộ, bài trừ hàng ngoại hoá để dùng hàng nội hoá, đến cả việc cắt tóc ngắn, v.v... nhưng chủ yếu hơn cả là việc vận động quần chúng đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống, hoặc trong những lúc khó khăn hoạn nạn. Đặc biệt, về mặt đấu tranh đã đi dần từ tự phát đến tự giác và ngày càng có phương pháp hơn. ở làng Phong Cốc, với sự tổ chức và vận động của các đảng viên Tân Việt, 12 nông dân đã làm chung một đơn kiện tố cáo bọn địa chủ và chức dịch chiếm hữu ruộng đất công điền, công thổ ở trong làng, và đòi con cái bọn chức dịch và giàu có cũng phải có trách nhiệm đóng góp mọi nghĩa vụ ở trong làng như mọi người dân khác. Cuối cùng cuộc đấu tranh đã thu được thắng lợi. Nhà cầm quyền đã buộc bọn địa chủ, chức dịch phải trả lại số ruộng công cho làng và buộc con cái chúng cũng phải làm các nghĩa vụ đóng góp như những người dân khác.
Tháng 4-1929, một lớp huấn luyện Tân Việt 3 tháng được mở tại nhà đồng chí Đỗ Huy Trinh (Thuần Hậu). Các đảng viên Tân Việt của Xuân Minh và một số cơ sở ở các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định đã được tham dự lớp huấn luyện này. Tại đây, các đảng viên Tân Việt trẻ đã được bồi dưỡng lý luận về chủ nghĩa Mác Lê nin (duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chủ nghĩa khoa học, chủ nghĩa tư sản dân quyền, tiểu sử các lãnh tụ, v.v... Một số tài liệu của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (như cuốn sách Đường Cách mệnh của đồng chí Nguyễn ái Quốc...) đã được sử dụng làm tài liệu chủ yếu để giảng dạy ở lớp huấn luyện này. Và bài huấn lệnh làm bằng văn vần được xem như sự tóm tắt về những phương châm hoạt động của người đảng viên Tân Việt được phổ biến rất rộng rãi lúc đó1.
Được tiếp thu, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác Lê nin và đường lối chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc tại lớp huấn luyện, các đảng viên Tân Việt của Xuân Minh đã trưởng thành nhanh chóng về nhận thức lý luận cách mạng, cho nên càng hăng hái đi sâu vào quần chúng để vận động cách mạng.
Cũng trong thời gian này, nội bộ của Đảng Tân Việt ở Thanh Hoá đang có sự phân hoá sâu sắc. Các đảng viên thuộc tầng lớp trên đã bộc lộ rõ tư tưởng quốc gia hẹp hòi và chống lại chủ trương thành lập một tổ chức cộng sản ở trong tỉnh. Tuy vậy, các đảng viên trẻ của Xuân Minh và của một số cơ sở Tân Việt ở Thanh Hóa vẫn kiên định lập trường theo chủ nghĩa Mác Lê nin và cương quyết chống lại lập trường bảo thủ đó. Và điều đó đã được thể hiện rõ trong quá trình chuyển hoá sang tổ chức cộng sản sau này.
Cuối năm 1929, cũng như bên tổ chức Thanh niên, tổ chức Tân Việt ở Thanh Hoá cũng bị khủng bố. Một số đảng viên Tân Việt nòng cốt của Xuân Minh đã bị địch bắt (như các đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ...), nhưng những đảng viên còn lại vẫn trung thành với sự nghiệp cách mạng, đã hoạt động tiếp tục một cách rất tích cực để chuẩn bị cho việc thành lập một tổ chức cộng sản sau đó.
Đến đây, vai trò chính trị của tổ chức Tân Việt cũng như tổ chức Thanh niên đã kết thúc. Nhưng với quá trình ra đời và hoạt động của nó, đã có tác dụng tạo tiền đề chín mùi cho sự ra đời của tổ chức cộng sản tại địa phương và trong tỉnh nói chung. Riêng đối với Xuân Minh, với sự ra đời và hoạt động của tổ chức Tân Việt, ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê nin và đường lối chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc đã được truyền đến mạnh mẽ, và những người con ưu tú của địa phương đã được đào tạo thành những cán bộ có năng lực, rất trung thành với sự nghiệp cách mạng. Cho nên, khi Tân Việt bị khủng bố và kết thúc vai trò thì đây vẫn là miếng đất tốt thúc đẩy sự ra đời sớm của một trong số những tổ chức cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Thanh Hoá.
II. SỰ THÀNH LẬP, CỦNG CỐ CƠ SỞ ĐẢNG VÀ NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH ĐẦU TIÊN CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH (1930 - 1935)
Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập. Đó là một sự kiện lịch sử vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cách mạng Việt Nam thực sự bước sang một thời kỳ mới thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sau khi ra đời, Đảng đã phát động được một cao trào cách mạng vô cùng rộng lớn với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Dưới sự lãnh đạo của ban chấp hành Trung ương Đảng, các cấp bộ Đảng ở các địa phương lần lượt được thành lập để tổ chức và lãnh đạo các cuộc đấu tranh.
Tại Thanh Hoá, do điều kiện vị trí địa lý tiếp cận với cả Bắc và Trung kỳ, cho nên, trong cùng khoảng thời gian, thông qua đường giây liên lạc cũ của hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt, cả xứ uỷ Bắc Kỳ và Trung kỳ đều xúc tiến việc bắt mối vận động xây dựng Đảng bộ cộng sản ở tỉnh ta1.
Ở Xuân Minh, trong bối cảnh lịch sử sôi động của đất nước và tỉnh nhà, các đảng viên Tân Việt trẻ tuổi vẫn kiên định lập trường theo chủ nghĩa Mác Lê nin và ra sức tuyên truyền vận động cách mạng để chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập một tổ chức cộng sản tại địa phương.
Đầu tháng 4-1930, sau khi ở tù ra, hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã trở về Xuân Minh để tiếp tục hoạt động. Tại làng Phong Cốc, hai đồng chí đã bắt mối ngay với số đảng viên và quần chúng của tổ chức Tân Việt cũ còn lại để thống nhất những phương châm hoạt động mới. Để tiến tới việc thành lập một tổ chức cách mạng, các đồng chí chủ trương làm tài chính, gây quĩ (như nuôi gà, làm vườn trầu, mua thóc gạo, v.v...) để rồi thông qua công tác này mà tập hợp lực lượng và liên lạc rộng ra các vùng xung quanh. Chỉ trong một thời gian ngắn, việc làm tài chính và gây quĩ cũng rất kết quả. Các đồng chí ở đây đã nuôi được gần 400 con gà và một vườn trầu rộng đến ba sào, sau đó lại mua được vài tấn lúa để tích luỹ. Cũng do hoạt động này mà việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê nin và việc vận động thành lập một tổ chức cách mạng cũng đã chín mùi ở Xuân Minh.
Đầu tháng 7-1930, với ảnh hưởng của cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, một số đảng viên tích cực và trung kiên của tổ chức Tân Việt cũ như các đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ (Thiệu Hoá) và Lê Văn Thiệp (Vĩnh Lộc) sau một thời gian liên hệ với nhau đã tự động nhóm họp tại làng Phong Cốc1 để thống nhất chủ trương tuyển chọn những đảng viên Tân Việt ưu tú nhất ở các địa phương để chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản. Đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ chịu trách nhiệm ở vùng Thiệu Hoá, Thọ Xuân và Yên Định, đồng chí Lê Văn Thiệp chịu trách nhiệm ở vùng Vĩnh Lộc, Cẩm Thuỷ.
Cuộc hội nghị Phong Cốc này có thể được xem là một sự kiện quan trọng chứng kiến sự ra đời của nhóm cộng sản ghép lần đầu tiên của hai huyện Thiệu Hoá và Vĩnh Lộc trên cơ sở tự chuyển hoá của một số đảng viên Tân Việt trung kiên còn lại. Cuộc hội nghị đó cũng chứng tỏ phong trào cách mạng của riêng khu vực Xuân Minh đã có sự thay đổi cơ bản về chất trên nguyên tắc và đường lối của chủ nghĩa Mác Lê nin. Nhưng dù sao thì cũng phải đợi đến khi chính thức bắt được liên lạc với Đảng thì sự thay đổi ấy mới đi đúng vào một quĩ đạo thống nhất trong guồng máy cách mạng chung của cả nước và cả tỉnh, đồng thời mới tạo ra được sức mạnh to lớn cho phong trào quần chúng trong cục diện đấu tranh với kẻ thù đế quốc và phong kiến tay sai.
Sau cuộc hội nghị Phong Cốc (7-1930), với sự hoạt động tích cực của ba đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ và Lê Văn Thiệp, các nhóm cộng sản ở Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định và Vĩnh Lộc đã lần lượt được thành lập và phát huy ảnh hưởng ngày càng mạnh trong quần chúng. Đặc biệt, tại phủ lỵ Vĩnh Lộc, nhóm cộng sản ở đây đã tổ chức treo cờ búa liềm tuyên truyền giới thiệu Đảng cộng sản và rải truyền đơn để phản đối tờ báo Thanh Nghệ Tĩnh tân văn - một tờ báo phản động và rất thù địch với chủ nghĩa cộng sản, đã gây được tiếng vang lớn ở các vùng trong tỉnh.
Ở Xuân Minh từ nhóm cộng sản đầu tiên ở làng Phong Cốc đã phát triển nhanh chóng sang các làng Ngọc Trung, Thuần Hậu và Xá Lê, sau đó lại lan rộng đến các làng Canh Hoạch (Xuân Lai), Phúc bồi (Thọ Lập), Yên Lãng (Phú Yên), Xuân Hoà, Hạnh Phúc, Vân Lộ của huyện Thọ Xuân và phía bên này là Ngọc Vực (Phúc Tĩnh Yên Định)1.
Nói chung, vào những tháng cuối năm 1930, ở Xuân Minh cũng như một số cơ sở của các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định và Vĩnh Lộc, mặc dù đã kịp thời chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản trong những phạm vi mức độ khác nhau, nhưng vì chưa bắt được liên lạc với Đảng một cách chính thức, cho nên mọi hoạt động lúc này vẫn thiếu một đường lối, một chủ trương sát đúng với yêu cầu, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của các nhóm cộng sản lúc này chủ yếu chỉ mới diễn ra dưới những hình thức như đòi cải cách hương thôn, đòi xoá bỏ và giảm bớt các hũ tục phong kiến nặng nề, lạc hậu, hay bài trừ mê tín dị đoan, v.v... Riêng ở làng Phong Cốc, việc đấu tranh chống lại lệ bất công nhiêu đã diễn ra một cách khôn khéo và có tổ chức với sự hưởng ứng đông đảo của quần chúng, đã buộc bọn lý hương phải chấp thuận: Lệ làng, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, ai cũng phải có nghĩa vụ đóng góp như nhau (như tuần làng, đưa ma, đắp đường, v.v...). Ngoài ra, ở các làng khác như Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung, việc đấu tranh đòi xóa bỏ và giảm bớt các hũ tục phong kiến lạc hậu cũng thu được một số kết quả, làm cho quần chúng rất phấn khởi. Tuy vậy, những cuộc đấu tranh này vẫn còn mang tính chất cục bộ ở từng địa phương và chưa phổ biến thành một phong trào quần chúng một cách sâu rộng. Do đó, một yêu cầu cấp thiết lúc này đã đặt ra đối với những chiến sĩ cộng sản vừa được chuyển hoá là phải nhanh chóng tìm cách bắt liên lạc với Đảng để thống nhất tổ chức và nhận chỉ thị về phương hướng, nội dung hoạt động cụ thể thì mới có thể làm cho tình hình biến chuyển một cách nhanh chóng và sâu rộng hơn.
Tháng 10-1930, nhóm cộng sản Xuân Minh đã tích cực xúc tiến việc bắt liên lạc với Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được phân công nhiệm vụ này. Qua sự giới thiệu của một số cơ sở Tân Việt cũ ở Lò Chum thị xã, đồng chí Nguyễn Văn Hồ đã quyết định xuống gặp đồng chí Ngô Đức Mậu một đảng viên Tân Việt còn lại, quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh hiện đang dạy học ở tổng Tuần Lá, huyện Tĩnh Gia để bàn cách đi Nghệ Tĩnh để tìm liên lạc với Đảng. Nhưng tại đây, đồng chí Ngô Đức Mậu lại vừa liên hệ được với đồng chí Lê Tất Đắc1 một cán bộ xứ uỷ Trung kỳ cử ra bắt mối với những đảng viên Tân Việt tích cực và số hội viên Thanh niên còn lại của tỉnh ta để vận động cho việc thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản ở Thanh Hóa. Cho nên, sau khi gặp gỡ với đồng chí Ngô Đức Mậu, được nắm biết chủ trương của xứ uỷ Trung kỳ, đồng chí Nguyễn Văn Hồ lại trở về Xuân Minh cùng với đồng chí Nguyễn Xuân Thuý tiếp tục tổ chức và củng cố các nhóm cộng sản vừa được chuyển hoá để thiết thực chuẩn bị cho việc thành lập Đảng bộ đảng cộng sản Thanh Hoá trong thời gian tới.
Thế là, sau mấy tháng chuẩn bị khẩn trương, ngày 1-1-1931, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ uỷ Trung kỳ, một cuộc hội nghị thành lập Ban chấp hành lâm thời tỉnh Đảng bộ đảng cộng sản Việt Nam Thanh Hoá được tổ chức tại làng Hồ Thượng (thuộc phủ lỵ Tĩnh Gia), với sự tham gia của 7 đại biểu của các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Quảng Xương và Tĩnh Gia. Sau khi tiếp thu chỉ thị của xứ uỷ và các tài liệu văn kiện của Đảng, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành tỉnh đảng bộ lâm thời gồm 5 đồng chí (Ngô Đức Mậu, Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ, Nguyễn Văn Giảng và Phạm Tiến Năng) do đồng chí Ngô Đức Mậu làm Bí thư.
Có thể nói, trong bối cảnh Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam Thanh Hoá do xứ uỷ Bắc kỳ chỉ đạo thành lập trước đó ở Yên Trường, Thọ Xuân (29-7-1930) vừa bị khủng bố (12-1930) thì đến đây, dưới sự chỉ đạo của xứ uỷ Trung kỳ, đảng bộ đảng cộng sản Việt Nam Thanh Hoá lại tiếp tục được thành lập là một hiện thực tất yếu và rất phù hợp với sự đòi hỏi ngày càng cấp thiết của phong trào cách mạng tỉnh ta khi đó. Điều này cũng chứng tỏ hùng hồn về sức sống bất diệt và sự quyết tâm cao độ của Đảng ta trong việc xác lập và giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam trên phạm vi cả nước. Trong quá trình vận động thành lập Đảng bộ, những người cộng sản Xuân Minh thực sự đóng góp hoạt động cho sự chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản ở địa phương cũng như ở các vùng khác trong, ngoài huyện.
Từ đây, phong trào cách mạng của Xuân Minh nói riêng và ở các cơ sở khác trong tỉnh nói chung lại được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất với những chủ trương, đường lối đúng đắn và rất cụ thể, cho nên đã tạo được một thế trận rộng lớn trên cục diện đấu tranh với quân thù.
Sau hội nghị thành lập Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng của Xuân Minh tiếp tục được củng cố và phát triển. Các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung, tổ chức Nông hội đỏ chính thức được thành lập và phát triển nhanh chóng. Riêng ở làng Phong Cốc, tính đến tháng 3 1931, số hội viên Nông hội đỏ đã có tới 18 người. Dưới sự lãnh đạo của cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội đỏ, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Xuân Minh ngày càng tiến mạnh cả về số lượng và chất lượng. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng dần dần được ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng.
Cuối tháng 3 1931, dưới sự bảo vệ chu đáo của các hội viên Nông hội đỏ, một cuộc họp bí mật của ba đồng chí Ngô Đức Mậu, Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã được tổ chức tại Vườn Trầu1 làng Phong Cốc để kiểm điểm đánh giá tình hình tổ chức và phong trào cách mạng chung ở trong tỉnh, đồng thời cử đại biểu vào Vinh để báo cáo và nhận chỉ thị của xứ uỷ Trung kỳ. Đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã vinh dự được thay mặt Đảng bộ Thanh Hoá để đảm nhận nhiệm vụ này.
Thực hiện Nghị quyết của hội nghị Vườn Trầu, cơ sở Đảng của Xuân Minh mà trực tiếp là ở làng Phong Cốc đã tìm kế hoạch bố trí cho đồng chí Nguyễn Xuân Thuý ra đi một cách an toàn và trót lọt.
Đầu tháng 4-1931, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã được gặp xứ uỷ tại thôn Yên Dũng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An cũ.
Sau khi nghe báo cáo của đại biểu Thanh Hoá, xứ uỷ đã chỉ thị cho Đảng bộ tỉnh ta phải nhanh chóng thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể chủ yếu như:
- Tổ chức biểu tình và các cuộc đấu tranh ở những nơi có điều kiện, treo cờ và rải truyền đơn ở các địa điểm quan trọng để thiết thực hưởng ứng cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1-5).
- Tiếp tục củng cố kiện toàn cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng và bộ máy lãnh đạo các cấp để kịp thời tổ chức, lãnh đạo các cuộc đấu tranh, v.v...
Ngoài ra, xứ uỷ còn giao cho đồng chí Nguyễn Xuân Thuý một số tài liệu cần thiết mang về cho Đảng bộ như điều lệ Nông hội đỏ, Cách mạng thổ địa, một số mẫu truyền đơn 1-5, v.v...
Cuối tháng 4-1931, Ban chấp hành tỉnh đảng bộ lâm thời đã mở một cuộc hội nghị mở rộng ở gần phà Ghép (thuộc huyện Tĩnh Gia). Sau khi nghe đồng chí Nguyễn Xuân Thuý báo cáo lại những ý kiến chỉ thị của xứ uỷ Trung kỳ, hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá lại tình hình công tác của Đảng bộ, đồng thời thảo luận những biện pháp và phương hướng cụ thể trước mắt để thi hành chỉ thị của xứ uỷ. Tại hội nghị này, ba đồng chí Lê Văn Thiệp (Vĩnh Lộc), Hà Duyên Đạt (Thọ Xuân), Nguyễn Trinh Thụ (Tĩnh Gia) đã được bầu bổ sung vào ban chấp hành tỉnh đảng bộ.
Chấp hành nghị quyết của hội nghị Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời mở rộng về việc thi hành chỉ thị của xứ uỷ Trung kỳ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng ở Xuân Minh đã xúc tiến ngay việc chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh mới nhân ngày quốc tế lao động (1-5) để ủng hộ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tại Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, các hội viên Nông hội đỏ được phân công in một số tài liệu và truyền đơn theo mẫu sẵn có của xứ uỷ để phân phát đi một số nơi như Thọ Xuân, Yên Định và Vĩnh Lộc.
Ngày 28-4-1931, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, một cuộc họp của một số đảng viên và hội viên Nông hội đỏ của các cơ sở cách mạng ở khu vực Xuân Minh được tổ chức tại nhà đồng chí Trịnh Văn Phan (Ngọc Trung) để bàn kế hoạch treo cờ và rải truyền đơn. Đồng chí Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc) và đồng chí Trịnh Văn Tiêu (Ngọc Trung) được phân công rải truyền đơn từ Cầu Vàng đến Hổ Bái (Yên Định), một số đồng chí thì được phân công mang truyền đơn đến các cơ sở cách mạng khác để bàn biện pháp phối hợp đấu tranh.
Đúng ngày 1-5-1931, tại thị xã, cờ Đảng đã ngạo nghễ tung bay trên nóc nhà ga Thanh Hoá, truyền đơn kỷ niệm ngày Quốc tế lao động và ủng hộ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được rải ở nhiều địa điểm quan trọng. ở trên này, theo kế hoạch đã định, truyền đơn cách mạng cũng đã xuất hiện ở vùng từ Cầu Vàng đi Hổ Bái. Còn kế hoạch biểu tình và treo cờ ở phủ Thọ Xuân phải hoãn lại vì chưa đủ điều kiện.
Mặc dù trong phạm vi toàn tỉnh lúc đó Đảng bộ chưa tổ chức được các cuộc biểu tình, nhưng với việc treo cờ, rải truyền đơn ở Thị xã và ở một số phủ huyện cũng có một tiếng vang lớn, làm cho ảnh hưởng và uy tín của đảng ngày càng sâu rộng trong quần chúng.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở Xuân Minh nói riêng và ở trong tỉnh nói chung đang có chiều hướng phát triển mạnh mẽ thì cuối tháng 6-1931, kẻ thù phát hiện được một số đảng viên1 làm nhiệm vụ phát triển Đảng lên Cẩm Thuỷ, cho nên từ đó đã phát hiện ra đầu mối và tập trung khủng bố vào Đảng bộ. Toàn bộ Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời đã lần lượt sa vào tay địch. Tại Xuân Minh, sau khi đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ bị bắt, kẻ địch còn điều động nhiều mật thám và tên tri phủ Thiệu Hoá về làng Phong Cốc, Ngọc Trung để tiến hành lục soát và khám xét những nơi chúng khả nghi. Đồng chí Nguyễn Văn Cáp một hội viên Nông hội đỏ cũng bị địch bắt vì cất giữ tài liệu.
Đến đây, phong trào cách mạng ở trong tỉnh lại tạm thời lắng xuống và thiếu một sự chỉ huy chung. Tuy vậy, ở Xuân Minh, những đảng viên còn lại cùng với những hội viên Nông hội đỏ vẫn bền bỉ, kiên trì các hoạt động duy trì phong trào và chắp nối tổ chức để đóng góp vào việc củng cố Đảng bộ Thanh Hoá trong thời gian tiếp theo.
Như vậy, từ giữa năm 1931 trở đi, trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh ta nói riêng, hoảng sợ trước sự lớn mạnh của phong trào quần chúng và uy tín của Đảng ngày một lên cao, đế quốc Pháp đã điên cuồng khủng bố một cách cực kỳ dã man, tàn bạo, hòng dìm cách mạng trong biển máu. Hàng ngàn chiến sĩ yêu nước và Đảng viên cộng sản bị bắt, bị giết, hoặc bị tù đày. Nhiều cơ quan của Đảng từ Trung ương trở xuống bị phá vỡ. Các tổ chức quần chúng do Đảng lập ra cũng bị tan rã hầu hết. Phong trào cách mạng đến đây tạm thời gặp nhiều khó khăn và sóng gió. Tuy vậy, tuyệt đại bộ phận những Đảng viên còn lại vẫn tuyệt đối trung thành và tin tưởng vào tiền đồ của Đảng, của cách mạng.
Khi kẻ thù vẫn đang tiếp tục tăng cường bộ máy đàn áp và tìm mọi thủ đoạn để tiêu diệt Đảng và bóp chết phong trào cách mạng của nhân dân ta thì một yêu cầu cấp thiết có tầm quan trọng đặc biệt được đặt ra đối với những người cộng sản chân chính là phải bằng mọi giá để khôi phục lại tổ chức, khôi phục lại phong trào trên tinh thần cương quyết và nhanh chóng nhất.
Tại Xuân Minh, mặc dù một số cán bộ, Đảng viên, chủ chốt (như đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ) bị bắt và bị kết án1, nhưng với tinh thần bất khuất kiên cường đã không chịu khai báo với địch, cho nên hầu hết số đảng viên và hội viên Nông hội đỏ ở đây vẫn còn nguyên vẹn. Đó chính là một nguyên nhân để cắt nghĩa ngọn lửa cách mạng của Xuân Minh vẫn không hề tắt giữa những ngày sóng gió nhất như lúc này.
Trong vòng kìm kẹp, khống chế của địch, những Đảng viên cộng sản và những quần chúng trung kiên còn lại của Xuân Minh vẫn bám sát cơ sở để chắp nối, cũng cổ tổ chức, củng cố phong trào, đồng thời tìm mọi cách để liên hệ với các đồng chí cán bộ Đảng viên chủ chốt đang bị giam giữ ở nhà lao Thanh Hoá để nắm biết những cơ sở, đầu mối còn lại của Đảng bộ mà liên lạc, bắt mối hoạt động. Cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội đỏ ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung đã kịp thời thống nhất chủ trương thay đổi các hình thức và phương pháp đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới như vận động quần chúng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất và khó khăn hoạn nạn. Nhờ đó mà cuối năm 1931, về mặt tổ chức cũng như phong trào ở đây đã đi vào thế ổn định và phát triển.
Đến đầu năm 1932, các đồng chí Đảng viên và hội viên Nông hội đỏ còn lại của Xuân Minh đã liên lạc được với một số cơ sở cách mạng ở các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc, và từ đó khu vực Xuân Minh đã trở thành một địa điểm liên lạc và đứng chân quan trọng của các chiến sĩ cách mạng ở nhiều địa phương trong tỉnh. Đặc biệt, từ Xuân Minh đến các làng Căng Hạ, Bình Ngô, Yên Lộ (Thiệu Hoá) và Ngọc Vực, Phúc Tĩnh (Yên Định) là những nơi mà cơ sở Đảng và phong trào quần chúng được phục hồi nhanh chóng nhất, đã liên hệ, phối hợp với nhau một cách mật thiết để thống nhất hành động. Chính những nơi này đã đóng góp rất tích cực cho quá trình khôi phục và củng cố của Đảng bộ tỉnh nhà.
Thực hiện Nghị quyết của hội nghị đại biểu bảy cơ sở cách mạng (thuộc các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành), được tổ chức ở làng Yên Lộ (2-1932), cơ sở Đảng ở Xuân Minh đã xúc tiến tổ chức, tập hợp quần chúng dưới hình thức các hội biến tướng (mà lúc đó vẫn gọi là họ Bạn) như hội đánh tranh, hội lợp nhà, hội đốn củi, hội cấy gặt, hội hiếu hỉ, hội làm dắng v.v... để hoạt động hợp pháp che mắt địch. Thông qua các hội biến tướng, cơ sở Đảng ở đây đã kêu gọi quần chúng tăng cường tinh thần thương yêu, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời vận động đấu tranh một cách hợp pháp như chống phù thu lạm bổ, chống cường hào nhũng nhiễu, chống hủ tục nặng nề. Do kết quả của các cuộc đấu tranh mà ở làng Thuần Hậu phải bỏ lệ lên chầm làm cỗ, hai miếu thờ phải bỏ bớt một, và tập trung các bát hương vào nhà thờ họ Đỗ, còn ở làng Phong Cốc thì phải bỏ lệ góp tiền làm thịt tế thần. Nói chung, ở các làng, tình trạng cúng tế liên miên và các lệ tục đóng góp nặng nề đã dần dần giảm bớt, riêng làng Thuần Hậu đã giảm được tới 50%.
Tháng 8-1932, hội nghị đại biểu bảy cơ sở cách mạng ở trong tỉnh lại được triệu tập lần thứ hai tại làng Ngọc Vực (Yên Định) để kiểm điểm tình hình và đề ra một nhiệm vụ cấp bách là xúc tiến việc liên lạc với Đảng cấp trên. Sau hội nghị, đồng chí Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc - Xuân Minh) và đồng chí Hoàng Văn Môn (Ngọc Vực Yên Định) được chính thức giao nhiệm vụ vào Nghệ An để tìm liên lạc với Đảng cấp trên, nhưng khi đến làng Yên Dũng (thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An cũ) thì cả hai đồng chí đều bị địch bắt nên công việc không thành1.
Đầu năm 1933, các cuộc đấu tranh đòi bãi bỏ các tục lệ đóng góp, lao dịch nặng nề, cũng như các cuộc đấu tranh chống bọn cường hào chức dịch phù thu lạm bổ và nhũng nhiễu nhân dân vẫn được phát động tiếp tục ở các làng của Xuân Minh đã làm cho quần chúng rất phấn khởi và hưởng ứng đông đảo.
Tháng 8-1933, giữa lúc bọn nhà giàu, chức dịch lợi dụng lúc giáp hạt và một đợt lụt cướp hết hoa màu, đã dở thủ đoạn cho vay nhỏ giọt với lãi suất rất cao để bóp nặn nhân dân, cơ sở Đảng ở làng Thuần Hậu mà đứng đầu là đồng chí Đỗ Huy Trinh đã kịp thời tổ chức, lãnh đạo 50 nông dân đi vay lúa 2 nhà giàu ở trong làng. Tất cả mọi người đều ký vào lá đơn đòi vay lúa để thống nhất hành động. Đối với nhà giàu Đỗ Văn Duyên, vì có con nằm trong tổ chức Nông hội đỏ vận động trước, cho nên đã nhanh chóng chấp nhận cho nông dân vay 60 thùng lúa. Riêng nhà giàu Mai Văn Kiều, thái độ rất ngoan cố. Khi đoàn vay lúa kéo đến, y đã sử dụng viên Tiên chỉ dùng uy thế là người đứng đầu trong làng để ngăn cấm và đe doạ mọi người. Nhưng trước lý lẽ và áp lực đấu tranh của quần chúng, viên Tiên chỉ đành cứng họng, rút lui, còn Mai Văn Kiều phải nhượng bộ để nông dân vay 50 thùng lúa.
Có thể nói, đây là cuộc đấu tranh mang tính chất hợp pháp và nửa hợp pháp tiêu biểu của tỉnh ta trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Mặc dù đó chỉ là cuộc đấu tranh kinh tế, nhưng lại đáp ứng được kịp thời yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng, cho nên tác dụng chính trị lại rất cao. ảnh hưởng của cuộc đấu tranh này đã làm cho khí thế của phong trào ở các làng xung quanh thêm sôi nổi.
Tháng 12-1933, để thúc đẩy phong trào cách mạng Xuân Minh tiến thêm một bước, cơ sở Đảng ở đây đã tổ chức một cuộc diễn thuyết tuyên truyền bí mật tại Nghè Thuần Hậu, có tới 43 người tham dự, bao gồm các Đảng viên, hội viên Nông hội đỏ và quần chúng trung kiên của 4 làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung. Người diễn thuyết là đồng chí Trịnh Hữu Thường và đồng chí Trịnh Khắc Sản. Và đến đầu năm 1934, một cuộc diễn thuyết tuyên truyền bí mật lại tiếp tục được tổ chức tại làng Xá Lê, có tới 50 người đến dự, người diễn thuyết là đồng chí Trịnh Khắc Sản.
Cả hai cuộc diễn thuyết tuyên truyền bí mật này đều do đồng chí Đỗ Đình Khanh lãnh đạo, và nội dung là nhằm bồi dưỡng nâng cao nhận thức, tình cảm về Đảng, về cách mạng, đồng thời chỉ rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, và kêu gọi đoàn kết đấu tranh, v.v... Nhờ đó mà phong trào của Xuân Minh càng có nhiều điều kiện để phát triển cả về bề rộng và bề sâu, đồng thời từ đây, phong trào lại ảnh hưởng và lan rộng đến các làng xung quanh như Trung Lập (xã Xuân Lập bây giờ), Phong Lai, Canh Hoạch (xã Xuân Lai bây giờ), v.v... Cũng thời gian này, nhiều quần chúng trung kiên được thử thách trong đấu tranh, hoặc trong các hội biến tướng đã được kết nạp tiếp tục vào tổ chức Nông hội đỏ để bổ sung lực lượng nòng cốt cho phong trào. Một số cán bộ, đảng viên chủ chốt của Xuân Minh như các đồng chí Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc), Đỗ Đình Khanh (Xá Lê), Đỗ Huy Trinh (Thuần hậu), Trịnh Văn Phan (Ngọc Trung)... không những chỉ lãnh đạo trực tiếp phong trào ở đây mà còn có trách nhiệm bắt mối tuyên truyền xây dựng các cơ sở cách mạng ở một số địa phương khác ngoài khu vực.
Trong bối cảnh của tỉnh nhà lúc đó, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng Xuân Minh vẫn là một địa điểm đứng chân rất đáng tin cậy của các chiến sĩ cách mạng. Các đồng chí cán bộ, đảng viên cốt cán của tỉnh như đồng chí Lê Chủ, Hoàng Văn Mạch, Bùi Đạt, Trịnh Khắc Sản, Trịnh Hữu Thường... và cả đồng chí Nguyễn Tạo một chiến sĩ cộng sản vừa vượt khỏi nhà tù Hoả lò Hà Nội để bắt mối về Thanh Hoá cũng thường xuyên qua lại Xuân Minh để hoạt động. Trước sự phát triển vững mạnh của phong trào cách mạng ở đây, các đồng chí đã quyết định chọn Xuân Minh làm địa điểm triệu tập một cuộc hội nghị chính thức để thống nhất chủ trương khôi phục và củng cố lại đảng bộ Thanh Hoá.
Ngày 17-3-1934, tại nhà đồng chí Đỗ Huy Trinh (Thuần Hậu), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Tạo và Lê Chủ, hội nghị đại biểu của các cơ sở Đảng ở trong tỉnh đã được triệu tập chính thức để thống nhất chủ trương củng cố, phát triển Đảng và các tổ chức quần chúng, thành lập cơ quan ấn loát và bầu ra ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời gồm bảy uỷ viên, do đồng chí Lê Chủ làm Bí thư. Cuộc hội nghị đã được lực lượng cách mạng ở Xuân Minh mà trực tiếp là ở làng Thuần Hậu bảo vệ an toàn.
Sự ra đời của Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời lần này đã trở thành một cái mốc đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng của phong trào cách mạng Thanh Hoá. Nhiệm vụ trung tâm là xây dựng lại hệ thống tổ chức Đảng ở trong tỉnh đã diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ, nhưng cuối cùng vẫn thắng lợi. Điều đó cũng chứng tỏ sức sống mãnh liệt của đảng ta. Trong quá trình ấy, những người chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng trung kiên của Xuân Minh đã thực sự đóng góp một phần quan trọng đối với sự phục hồi của Đảng bộ tỉnh nhà.
Từ đây, phong trào cách mạng ở Xuân Minh và các địa phương khác trong tỉnh lại được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ tỉnh mà bộ phận đầu não là Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời, cho nên càng có điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng và vững chắc hơn.
Sau hội nghị Thuần Hậu, cơ quan in của đảng bộ tỉnh (ở Yên Lộ Thiệu Hoá) hoạt động rất tích cực. Nhiều tài liệu cách mạng như A B C cộng sản, Duy vật sử quán, Tóm tắt lịch sử loài người, Nông dân vận động, Bài ca dân cày, Điều lệ đảng, Điều lệ Nông hội đỏ, và một số bài viết của đồng chí Nguyễn Tạo như Cách mạng vấn đáp, Đông Dương sẽ làm mồi cho hai con ác thú Nhật Pháp, Câu chuyện dân nghèo, v.v... đã lần lượt được gửi đến các cơ sở cách mạng của Xuân Minh và các cơ sở cách mạng khác ở trong tỉnh để bồi dưỡng, nâng cao tình cảm, nhận thức và lý luận cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực, nhờ đó mà tổ chức về phong trào cách mạng càng được củng cố và phát triển.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở Xuân Minh và trong tỉnh nói chung đang trên đà đi lên thì từ tháng 4 đến đầu tháng 5-1934, thực dân Pháp đã mở một đợt truy lùng các chiến sỹ cộng sản Thanh Hoá. Một số cán bộ chủ chốt của Đảng bộ như đồng chí Nguyễn Tạo, Lê Chủ, Bùi Đạt... đã lần lượt sa vào lưới địch. Tuy vậy, do giữ vững nguyên tắc hoạt động bí mật và lòng trung thành của cán bộ, đảng viên và quần chúng cho nên hầu hết tất cả các cơ sở cách mạng của Đảng bộ vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Mọi hoạt động của Đảng bộ và của các cơ sở cách mạng vẫn được triển khai một cách bình thường, bí mật. Cơ quan in của Đảng bộ lại chuyển từ làng Yên Lộ sang làng Ngọc Vực (Yên Định) và tại đây, tờ báo Hồn lao động tiếng nói của Đảng bộ được xuất bản, và số báo đầu tiên đã ra đời vào tháng 6-1934.
Thời gian này, phong trào ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung (của Xuân Minh), Long Linh (Thọ Trường), Ngọc Vực (Yên Định), Yên Lộ (Thiệu Hóa)... vẫn là những nơi phát triển vững chắc nhất so với các cơ sở cách mạng khác ở trong tỉnh.
Cuối năm 1934, làng Phong Cốc (Xuân Minh) là một trong những cơ sở cách mạng đầu tiên của tỉnh đã thành lập được tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản và Hội phụ nữ giải phóng để tập hợp đông đảo lực lượng thanh niên và phụ nữ tham gia hoạt động cách mạng. Sang năm 1935, các làng Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung cũng lần lượt thành lập được các tổ chức này.
Tháng 2-1935, đại biểu của làng Phong Cốc, Xá Lê được triệu tập để tham dự hội nghị thành lập Hội phụ nữ giải phóng liên khu vực Thiệu Hoá - Thọ Xuân Yên Định tại làng Long Linh ngoại (nay thuộc xã Thọ Trường, huyện Thọ Xuân).
Từ sau hội nghị này, nhiều chị em phụ nữ Xuân Minh, qua rèn luyện thử thách đã tỏ rõ năng lực hoạt động cách mạng rất xuất sắc.
Tháng 6-1935, tỉnh Đảng bộ lâm thời đã tổ chức một cuộc mít tinh tại chùa Bút (Yên Định). Thành phần tham dự gồm đông đảo cán bộ, Đảng viên và quần chúng trung kiên ở các cơ sở cách mạng của hai huyện Yên Định và Thiệu Hoá. Riêng Xuân Minh, cơ sở cách mạng ở làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung đã có tới 60 người đến tham dự. Tại cuộc mít tinh, đồng chí Trịnh Huy Quang thay mặt ban chấp hành Tỉnh đảng bộ lâm thời đã đứng lên diễn thuyết với nội dung giới thiệu khái quát tình hình phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt nhấn mạnh về ý nghĩa của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, đồng thời kêu gọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp quần chúng (trong đó có phụ nữ) hăng hái tích cực tham gia vào các tổ chức và hoạt động cách mạng, mở rộng hơn nữa các tổ chức quần chúng, chuẩn bị thành lập hội ái hữu để thay thế cho các hội biến tướng vừa qua.
Sau cuộc mít tinh, nắm bắt được chủ trương của Tỉnh Đảng bộ, cơ sở cách mạng ở các làng của Xuân Minh đã nhanh chóng xúc tiến việc thành lập ra tổ chức ái hữu để thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Thời gian này, trong tổ chức cách mạng, lực lượng thanh niên và phụ nữ được bổ sung ngày một nhiều và hoạt động rất hăng hái. Riêng làng Phong Cốc, trong quá trình vận động, đã hình thành ba nhóm hoạt động theo lứa tuổi (nhóm thanh niên, nhóm trung niên và nhóm đứng tuổi), do đó đã có tác dụng tuyên truyền một cách sâu rộng hơn trong quần chúng.
Tháng 7-1935, đại biểu của các cơ sở cách mạng ở làng Phong Cốc, Xá Lê, Ngọc Trung đã được tham dự hội nghị thành lập Ban trị sự ái hữu liên khu vực Yên Định Thiệu Hoá tại làng Ngọc Vực (Yên Định) do đồng chí Hoàng Văn Mạch chủ trì. Đồng chí Nguyễn Xuân Liên (Phong Cốc) và đồng chí Đỗ Đình Khánh (Xá Lê) đã được hội nghị cử vào Ban Trị sự ái hữu liên khu vực. Tại hội nghị này các đại biểu đã nhất trí thông qua các khẩu hiệu đấu tranh mới như chống sưu cao, thuế nặng, chống phù thu lạm bổ, chống cường hào nhũng nhiễu, v.v...
Việc thành lập Ban trị sự ái hữu liên khu vực Yên Định Thiệu Hoá càng tạo thêm điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phong trào cách mạng phát triên lên một quy mô lớn. Lúc này, Ban trị sự ái hữu của tổng và liên tổng cũng ra đời để trực tiếp theo dõi và thống nhất phối hợp hành động giữa các làng với nhau. Nhờ đó mà phạm vi hoạt động của phong trào được mở rộng không ngừng. Tại Xuân Minh, phong trào dần dần lan sang cả làng Yên Thọ, Phú Tình và Thiên Lộc.
Để hạn chế sự phát triển của phong trào cách mạng, ngay từ đầu năm 1935, kẻ địch đã sử dụng những tên tay sai đắc lực nhất như Hào Văn (Phong Cốc) và Hào Liên (Thuần Hậu) với danh nghĩa truyền đạo để thực hiện mục đích chia rẽ các lực lượng quần chúng ở địa phương. Bên cạnh thủ đoạn tuyên truyền bịp bợm, chúng còn bỏ tiền bạc kinh tế để lôi kéo những quần chúng nhẹ dạ cả tin. Vì thế, chỉ sau mấy tháng, ở Xuân Minh đã có tới 40 người theo đạo. Đứng trước tình hình đó, các đồng chí cán bộ, đảng viên chủ chốt ở Xuân Minh đã quyết định mở một cuộc vận động chống bọn phản động đội lốt tôn giáo và từng bước giải thích cho quần chúng thấy rõ âm mưu nham hiểm của kẻ thù. Cuộc vận động này đã diễn ra một cách bền bĩ, kiên trì và rất khôn khéo trong gần một năm, có lúc cũng rất căng thẳng, nhưng cuối cùng vẫn thu được thắng lợi hoàn toàn. Kết quả bọn phản động đội lốt tôn giáo vẫn không thể nào lập được nhà nhờ ở mảnh đất cách mạng này, còn 40 quần chúng nhẹ dạ cả tin sau khi được tuyên truyền giải thích đã thấy được âm mưu của bọn phản động, nên tự nguyện không theo đạo nữa, riêng chỉ có Hào Văn là vẫn ngoan cố, nhưng vì bị cô lập hoàn toàn, cho nên y phải đưa gia đình lên vùng Phúc Địa, Đá Lát để sống, còn riêng y thì vẫn đi về Xuân Minh để tìm cách trả thù cách mạng.
Có thể nói, cuộc vận động chống bọn phản động đội lốt tôn giáo ở Xuân Minh (từ đầu năm 1935 đến cuối năm 1935) đã diễn ra một cách thắng lợi, điều đó chứng tỏ rằng các cơ sở cách mạng ở đây rất vững vàng, trình độ giác ngộ của quần chúng rất cao, chính vì thế mà mọi âm mưu nham hiểm hòng phá hoại phong trào cách mạng của kẻ thù đều bị ngăn chặn và đẩy lùi.
Như vậy, sau những năm chống khủng bố để khôi phục và phát triển phong trào, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng cách mạng ở Xuân Minh không những vẫn đứng vững mà ngày càng trưởng thành nhanh chóng qua các cuộc đấu tranh, đồng thời còn tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của cao trào cách mạng sau đó. Trong những năm này, những chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng ở đây đã thực sự đóng góp một phần đáng kể vào quá trình thành lập, củng cố của Đảng bộ tỉnh nhà và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quí báu về việc bảo tồn và phát triển lực lượng cách mạng, về phương pháp hoạt động bí mật đã giữ vững tổ chức và tập hợp quần chúng, về sự chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phong trào phát triển lên một bước cao hơn, v.v... và đến cuối năm 1935, phong trào cách mạng của Xuân Minh đã thực sự vững vàng để thẳng bước sang một thời kỳ mới thời kỳ cao trào vận động dân chủ của Đảng ta (1936-1939).
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH ĐÒI QUYỀN DÂN SINH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH (1936-1939)
Tháng 7-1935, trước tình hình chủ nghĩa phát xít đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới mới để giành giật và chia lại thị trường, đồng thời thực hiện âm mưu tiêu diệt Liên Xô - thành trì của cách mạng thế giới, đại hội lần thứ bảy của Quốc tế cộng sản đã được triệu tập ở Matxcơva để bàn biện pháp chống lại nguy cơ của chủ nghĩa phát xít. Đại hội vạch ra nhiệm vụ trước mắt cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh để lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh phát xít xâm lược, bảo vệ dân chủ và hoà bình.
Tháng 4-1936, Mặt trận nhân dân Pháp do Đảng cộng sản làm nòng cốt đã giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, dẫn đến việc thành lập một Chính phủ tiến bộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Sự kiện này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị của ba nước Đông Dương.
Xuất phát từ tình hình trong nước và thế giới, và căn cứ vào Nghị quyết của đại hội quốc tế cộng sản lần thứ bảy, tháng 7-1936, hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đã họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) để vạch ra chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt Nam. Hội nghị đã chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến để thực hiện Dân tộc độc lập và người cày có ruộng vẫn không thay đổi, nhưng trong tình hình lúc này chưa phải là nhiệm vụ cách mạng trực tiếp và trước mắt phải tạm gác khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập và khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày để thay vào đó là các khẩu hiệu đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình. Để thực hiện mục tiêu ấy, hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận phản đế rộng rãi (mà sau đó đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương) để tập hợp mọi tầng lớp, mọi giai cấp, tôn giáo... thành một khối đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ.
Từ sau hội nghị Trung ương Đảng, phong trào cách mạng nước ta thực sự bước sang một thời kỳ mới thời kỳ cao trào vận động đòi quyền dân sinh, dân chủ vô cùng to lớn và rộng khắp.
Ở tỉnh ta, trong bối cảnh lịch sử lúc đó, mặc dù chưa bắt được liên lạc trực tiếp với Trung ương Đảng, nhưng Đảng bộ Thanh Hoá vẫn hoạt động một cách tích cực và nhạy bén, đồng thời thông qua một số báo chí công khai tiến bộ, Đảng bộ đã kịp thời nắm bắt được những biện pháp để thúc đẩy, chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng của tỉnh nhà cho phù hợp với sự đòi hỏi của tình hình mới.
Tháng 2 1936, Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời tổ chức một cuộc họp tại chùa Yên Lộ (thuộc Thiệu Vũ, Thiệu Hoá) để kiểm điểm, đánh giá phong trào cách mạng chung ở trong tỉnh, đồng thời bàn biện pháp xúc tiến thêm một bước công tác xây dựng Đảng bộ, xây dựng các tổ chức quần chúng và kiện toàn lại Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời (đồng chí Lê Chủ được cử làm Bí thư).
Tại Xuân Minh, cơ sở đảng và các tổ chức quần chúng sau những năm củng cố đã vững vàng thì đến giai đoạn này lại càng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng. Các Hội ái hữu dưới hình thức họ bạn ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung và tiếp sau đó là Yên Thọ, Phú Tình, Thiên Lộc đã lần lượt chuyển thành hội Tương tế ái hữu để tập hợp đông đảo quần chúng đấu tranh từng bước từ thấp đến cao. Lúc này, sự hoạt động ở các làng đã có sự phối hợp rất chặt chẽ với nhau. Ban trị sự liên thôn ở đây đã phát huy vai trò một cách rất tích cực.
Cũng vào thời gian đầu năm 1936, do kết quả của phong trào đấu tranh chung ở toàn quốc, nhiều chính trị phạm đã được ân xá. Hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ từ nhà tù Lao Bảo đã trở về Xuân Minh để tiếp tục hoạt động, làm cho đội ngũ lãnh đạo cốt cán của địa phương được tăng cường vững mạnh hơn.
Tháng 3-1936, một số đại biểu trong tổ chức tương tế ái hữu của các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu đã được tham dự cuộc mít tinh cổ vũ việc thành lập các trường lớp bình dân ở làng Ngọc Vực (Yên Định) do đồng chí Hoàng Văn Mạch chủ trì. Sau cuộc mít tinh này, các làng của Xuân Minh đã lần lượt tổ chức được các lớp học bình dân với sự tham gia đông đảo của quần chúng các lứa tuổi và phụ nữ. Cơ sở Đảng và Ban trị sự ở đây đã có một số đồng chí trong tổ chức đứng ra phụ trách giảng dạy ở các lớp học. Với việc tổ chức được các lớp học bình dân, sách báo công khai của Đảng lại càng có điều kiện lưu hành và tuyên truyền rộng trong quần chúng.
Phong trào đấu tranh của quần chúng lúc này diễn ra ngày càng liên tục với những nội dung đòi xoá bỏ hũ tục, đòi chia lại công điền công thổ, đòi giảm miễn sưu thuế, đòi nam nữ bình quyền, v.v... Nhưng sôi nổi và quyết liệt nhất là cuộc đấu tranh chống tên Tây Đoan ở làng Phong Cốc.
Chiều ngày 14-9-1936, tên Tây Đoan Béc nác - đơ (Bernardet) và một số lính áp vào làng Phong Cốc, lấy cớ bắt rượu lậu, thuốc lào để phát hiện tại liệu và cơ sở cách mạng ở đây. Trong khi chúng đang lục soát ở một gia đình cạnh nhà đồng chí Nguyễn Xuân Liên nơi cất giữ tài liệu bí mật của Đảng, một số đồng chí trong ban cán sự Tương tế ái hữu của làng đã kịp thời chuyển số tài liệu đi nơi khác một cách an toàn, đồng thời cử người đánh trống liên thanh để báo động cho quần chúng kéo đến ngăn chặn hành động của chúng. Số người ở làng Phong Cốc và các làng lân cận như Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê dồn đến mỗi lúc một đông và vây chặt lấy chúng. Được một lúc, lý trưởng Trần Văn Hoàng (sau khi được đồng chí Nguyễn Xuân Oanh đến báo tin và kích động về việc bọn Tây Đoan tự tiện lục soát ở trong làng mà không trình bày với ai) đã cầm gậy chạy đến để đình chỉ và ngăn cấm việc làm trái phép này của bọn chúng. Trước thái độ cứng rắn của Lý trưởng Hoàng và áp lực mạnh mẽ của quần chúng, tên Béc nác - đô hoảng sợ, vội rút súng bắn chỉ thiên để thị uy. Hành động này càng làm cho quần chúng phẫn nộ thêm. Trong giờ phút căng thẳng, được sự hỗ trợ của quần chúng, lý trưởng Hoàng đã giơ gậy đánh thẳng vào tên Tây Đoan thì nó chĩa súng bắn trả ngay. Lý trưởng Hoàng ngã xuống. Ngọn lửa căm thù bốc cao trong lòng quần chúng. Nhiều người đã xông vào đánh tên Tây Đoan cùng bọn lính và cương quyết đòi chúng phải đền mạng cho viên lý trưởng vừa bị chết. Thấy tình hình diễn biến đã đến độ gay gắt và rất phức tạp, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của địa phương đã giải thích cho quần chúng thấy rõ âm mưu của địch và yêu cầu tất cả mọi người phải bình tĩnh để tìm biện pháp giải quyết. Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã nhận trách nhiệm xuống Thiệu Hoá báo cho tri phủ biết sự việc này và đề nghị y lên ngay hiện trường để giải quyết việc bồi thường tính mạng cho nạn nhân.
Ngay đêm ấy, tên tri phủ Thiệu Hoá Phan Sĩ Thao phải lên ngay hiện trường xảy ra sự việc ở làng Phong Cốc để giải quyết. Và tại đây, y phải hứa trước quần chúng là sẽ bồi thường cho gia đình nạn nhân sau khi nhận bảo lãnh tha cho tên Béc nac - đô.
Nhưng sau khi được thả ra, tên Tây Đoan và đồng bọn đã lập mưu tự gây ra thương tích để vu cáo nhân dân làng Phong Cốc đánh quan tây và những nhà chức trách trong lúc đang thi hành nhiệm vụ. Thủ đoạn đổi trắng thay đen này lại được tên phản động Đỗ Hữu Văn đứng ra làm chứng. Do đó mà thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã ra lệnh bắt 10 người mà chúng cho là cầm đầu vụ nổi loạn này, trong đó có cả đảng viên và cán bộ chủ chốt của làng1.
Được sự giúp đỡ, ủng hộ của nhiều cơ sở cách mạng trong tỉnh, cuộc đấu tranh của nhân dân làng Phong Cốc vẫn diễn ra một cách bền bỉ, liên tục trên cả mặt pháp lý và đã gây được tiếng vang rất lớn trên báo chí lúc bấy giờ. Đặc biệt, phóng viên của tờ báo Le Travail (Lao động) đã về tận làng Phong Cốc tìm hiểu sự việc để đăng bài trên báo. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được giao nhiệm vụ đến gặp Phan Văn Giáo để nhờ nói với luật sư Trần Văn Chương đứng ra bào chữa trong vụ này1.
Cuối cùng, trước sức mạnh đoàn kết đấu tranh và được dư luận tiến bộ ủng hộ, thực dân Pháp mặc dù đổi trắng thay đen xử số người bị bắt của làng Phong Cốc từ toà án đen ở Vinh đến toà án đỏ (tức toà án đại hình) ở Hà Nội, nhưng cuối cùng vẫn phải buộc tuyên bố cho 7 người trắng án và 3 người bị phạt giam từ 1 đến 3 năm2. Riêng tên thực dân Béc nác - đô, mặc dù là người mẫu quốc và được bọn thống trị che chở nhưng vẫn phải bị kết án 5 tháng tù treo và bị trục xuất khỏi xứ Trung kỳ.
Cuộc đấu tranh chống tên Tây Đoan ở làng Phong Cốc thắng lợi đã gây được tiếng vang rộng lớn trong toàn tỉnh và trong cả nước. Với thắng lợi ấy, quần chúng càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, đây là cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp tiêu biểu nhất của Thanh Hoá lúc này, và đồng thời đã trở thành một cái mốc mở đầu cho thời kỳ vận động dân chủ ở tỉnh ta; mặt khác, đây cũng chính là cuộc tập dượt lớn đầu tiên của nhân dân Xuân Minh trong đấu tranh trực diện với kẻ thù. Cuộc đấu tranh này còn biểu hiện sự vận dụng khéo léo giữa hình thức đấu tranh công khai hợp pháp với hình thức không hợp pháp của cơ sở cách mạng ở đây. Chính vì thế mà càng về sau, sự kết hợp đó càng được biểu hiện phong phú, sinh động và có kinh nghiệm hơn.
Cuối năm 1936, phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp do Đảng ta lãnh đạo đã lên mạnh. Nhằm thúc đẩy phong trào phát triển lên một bước mới, tháng 12-1936, ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời đã tổ chức một cuộc họp làng Yên Lộ (Thiệu Hoá) để đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể cho cuộc vận động dân chủ ở tỉnh ta phát triển đều khắp cả thành thị và nông thôn, mặt khác lưu ý đặc biệt đến phong trào công nhân ở các nhà máy, đồn điền và hầm mỏ.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, từ đầu năm 1937 trở đi, phong trào đấu tranh của nhân dân Xuân Minh càng có nhiều điều kiện để phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt về mặt xây dựng các tổ chức quần chúng rất được chú trọng vẫn là nét nổi bật của cơ sở cách mạng ở đây. Đoàn Thanh niên phản đế và Hội Phụ nữ phản đế (mà sau đó đến năm 1938 thì đổi là Đoàn Thanh niên dân chủ và hội Phụ nữ dân chủ) lần lượt được thành lập ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung. Đó là những lực lượng nòng cốt trong các cuộc đấu tranh. Lúc này, hội Tương tế ái hữu phát triển đông đảo và đều khắp ở tất cả 7 làng, làm cho đội ngũ cách mạng ở đây càng thêm vững chắc. Cơ sở Đảng ở Xuân Minh đã bố trí một số đồng chí Đảng viên hoặc hội viên tương tế ái hữu trung kiên tham gia bộ máy chính quyền địch tại mỗi làng, làm cho phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp càng có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển mau lẹ.
Phong trào học chữ quốc ngữ trong thời gian này cũng được mở rộng nhanh hơn. ở đây có cả lớp học buổi tối, có cả lớp học ban ngày, thu hút được nhiều chị em phụ nữ và người nhiều tuổi tham gia. Có làng như Thuần Hậu, Phong Cốc đã mở được từ 2 đến 3 lớp học cho quần chúng.
Tinh thần đoàn kết đấu tranh và tình tương thân tương ái được phát huy cao độ qua những hoạt động cụ thể của hội Tương tế ái hữu ở các làng như giúp đỡ nhau trong sinh hoạt đời sống và trong sản xuất, nhất là khi khó khăn hoạn nạn (ốm đau, làm nhà, cưới xin, sinh đẻ, ma chay, v.v...), hay lúc bài trừ mê tín dị đoan và hũ tục xôi cân gà lượt nặng nề, hoặc việc chống bọn cường hào, lý hương nhũng nhiễu, ức hiếp dân nghèo, v.v... Với những nội dung hoạt động ấy mà hội Tương tế ái hữu đã thu hút quần chúng ở các làng tham gia mỗi ngày một đông đảo, thậm chí ngay cả một số con cháu lý hương cũng tự nguyện xin vào hội và ngày càng có cảm tình với cách mạng.
Tháng 6-1937, do nạn hạn hán mất mùa gây ra tình trạng đói kém, cơ sở Đảng và Ban trị sự của Hội tương tế ái hữu ở đây một mặt mở cuộc vận động vay lúa nhà giàu để giúp đỡ những gia đình nghèo khó, mặt khác đã phát động chị em phụ nữ ở các làng đoàn kết đấu tranh đòi các nhà giàu phải tăng công cày và công cấy. Cuộc đấu tranh này còn được chị em phụ nữ ở một số làng lân cận ủng hộ, cho nên đã mau chóng thu được kết quả. Cuối cùng, các nhà giàu ở làng Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung đã phải nhượng bộ tăng công cày, công cấy mỗi ngày từ 2 bơ lên 3 bơ gạo. Riêng làng Phong Cốc, một số nhà giàu còn ngoan cố tìm thủ đoạn thuê thợ cày, thợ cấy ở nơi khác đến, nhưng trước áp lực đấu tranh của quần chúng và sự thống nhất hành động của những người thợ cày, thợ cấy trong, ngoài địa phương, cho nên cuối cùng đã buộc chúng phải nhượng bộ tăng công cày, công cấy như các làng trên.
Cuộc vận động vay lúa nhà giàu cho dân nghèo và cuộc đấu tranh đòi tăng công cày công cấy giành được thắng lợi, làm cho quần chúng rất phấn khởi. Một lần nữa, chị em phụ nữ Xuân Minh lại được tập dượt và thử thách trực tiếp trong cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế hàng ngày đã tỏ rõ là một lực lượng rất quan trọng trong trận tuyến đấu tranh cách mạng tại địa phương. Cũng từ đây, qua rèn luyện thử thách, một số chị em đã trở thành những cán bộ nòng cốt của phong trào cơ sở như các đồng chí Đỗ Thị Hạm (Thuần Hậu), Trịnh Thị Niếp, Trịnh Thị Thịnh (Ngọc Trung), Nguyễn Thị Vần (Phong Cốc), Nguyễn Thị Ven (Xá Lê), v.v...
Bên cạnh các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế hàng ngày, ở các làng của Xuân Minh còn diễn ra một số cuộc đấu tranh hạ uy thế cường hào. Tiêu biểu nhất là vụ đánh lý trưởng ở làng Xá Lê. ở đây, hàng tháng cứ vào ngày 1 và ngày 15 âm lịch là có lệ cúng trầu rượu ở trên nghè. Và sau khi cúng đều phải chia phần trầu rượu cho các vị trùm lão và chức sắc ở trong làng. Vào dịp này, một số đồng chí trong Ban trị sự của Hội Tương tế ái hữu đã tổ chức vận động mọi người không chia phần trầu rượu cho những ai vắng mặt. Lý trưởng Thoại vì không đi nên không được chia. Y cậy thế, chửi mắng, và quát nạt mọi người rất hống hách. Thấy vậy, đồng chí Đỗ Huy Phấn và đồng chí Trịnh Văn Khâm đã bố trí đánh lý trưởng Thoại một trận. Y hô hoán ầm ĩ. Mọi người đổ xô chạy ra. Nhưng vì không có tang chứng cụ thể cho nên bọn chức dịch ở trong làng cũng không làm gì được.
Cuộc đấu tranh hạ uy thế cường hào còn diễn ra dưới hình thức khác sinh động hơn. ở làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, vào tháng 5 âm lịch thường có lễ cầu mát dưới gốc đa trước làng. Lợi dụng dịp này, ban trị sự của hội Tương tế ái hữu đã đưa vào đó nội dung và hình thức rất mới, nhưng chủ yếu là để tố cáo, vạch mặt tội lỗi của bọn cường hào bóc lột thông qua các bài văn tế (mà lúc đó gọi là vè khao thuyền). Tác dụng của hình thức này cũng làm cho quần chúng nâng cao được nhận thức về cách mạng, về bạn, thù, v.v... ở làng Xá Lê, để kết thúc buổi tế, quần chúng còn hô các khẩu hiệu đả đảo bọn cường hào phản động hại nước hại dân.
Từ giữa năm 1937 trở đi, phong trào của Xuân Minh càng thêm sôi nổi. ở hầu hết các làng, những cuộc nói chuyện tuyên truyền sinh hoạt thường xuyên được tổ chức ở những nơi tụ tập đông người (như đám cưới, đam ma, làm nhà, hay giỗ kỵ ở trong họ, v.v..., để động viên quần chúng hăng hái tham gia hoạt động cách mạng. Ngoài ra, tại một số làng như Phong Cốc và Thuần Hậu, các đồng chí cán bộ, Đảng viên chủ chốt còn tổ chức được vài lớp huấn luyện cấp tốc riêng cho phụ nữ, nhờ đó mà nhận thức và lý luận cách mạng của chị em được nâng dần lên. Do vận động, tuyên truyền tích cực, và các hoạt động cụ thể đã đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, cho nên, thời gian này, hội Tương tế ái hữu ở các làng đã thu hút được tuyệt đại bộ phận số người của địa phương tham gia. Đặc biệt, tại các làng Phong Cốc, Xá Lê và Thuần Hậu, ban trị sự của hội Tương tế ái hữu đã vận động quần chúng tập trung số ruộng công điền được chia lại để cày cấy, gây quỹ cho hội. Một ban quản trị (gồm Trưởng ban, thư ký, thủ quĩ và các uỷ viên) được thành lập ra để trực tiếp điều hành việc sản xuất và thu hoạch. Đây là một hình thức hoạt động sáng tạo của cơ sở cách mạng ở Xuân Minh. Từ trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, hình thức làm ăn tập thể sơ khai ra đời, đã có tác dụng tăng cường hơn nữa tinh thần cộng đồng tương trợ và đoàn kết đấu tranh của nhân dân địa phương.
Ngày 7-7-1937, thực hiện chủ trương của tỉnh Đảng bộ lâm thời, cơ sở Đảng của tổng Thử Cốc đã tổ chức một cuộc mít tinh kỷ niệm Quảng Châu Công xã để kêu gọi ủng hộ nhân dân Trung Hóa chống Nhật tại cánh đồng Mã Nung (làng Ngọc Trung). Người diễn thuyết là đồng chí Đỗ Đông Uyên. Cuộc mít tinh này đã có đến hơn 300 người trong tổng đến tham dự (riêng 7 làng của Xuân Minh đã có gần 200 người). Cuộc mít tinh đã có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần quốc tế và làm cho quần chúng thấy rõ nguy cơ nghiêm trọng của chủ nghĩa phát xít thế giới. Sau đó những người dự mít tinh đã tự nguyện đóng góp từ 5 xu đến 1 hào để ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng chiến chống Nhật.
Như vậy, đến cuối năm 1937, phong trào cách mạng của Xuân Minh đã tiến những bước rất vững chắc. Cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng phát triển một cách nhanh chóng và nắm bắt rất đúng chủ trương của Tỉnh Đảng bộ để đưa phong trào đi lên từ thấp đến cao, từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị. Và qua thực tiễn phong trào, đội ngũ cốt cán ở đây được rèn luyện thử thách và ngày càng có thêm kinh nghiệm hoạt động cách mạng, một số đồng chí đã trở thành cán bộ cốt cán của tổng, huyện và tỉnh.
Tháng 12-1937, Đảng bộ Thanh Hoá chính thức bắt được liên lạc với Trung ương Đảng và từ đó trở đi, phong trào cách mạng của tỉnh lại được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ uỷ Trung kỳ. Đó là một điều kiện hết sức thuận lợi và quan trọng để thúc đẩy phong trào cách mạng Thanh Hoá phát triển một cách nhanh chóng, toàn diện hơn.
Để quán triệt và tiếp thu đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, hội nghị Tỉnh Đảng bộ lâm thời mở rộng đã được triệu tập (tại làng Yên Lộ Thiệu Hoá). Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương, hội nghị đã quyết định mở một đợt vận động tuyên truyền cho việc thành lập Mặt trận dân chủ thống nhất ở trong tỉnh, đồng thời đề ra những nội dung hoạt động cụ thể cho cả vùng thành thị, nông thôn, hầm mỏ, xí nghiệp và miền núi, v.v... Hội nghị còn quyết định việc chuyển cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ về Thị xã để đáp ứng kịp thời cho việc chỉ đạo phong trào chung ở trong tỉnh. Từ đây, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ ở tỉnh ta mới thực sự bước sang giai đoạn cao trào.
Tháng 1-1938, ở các làng của Xuân Minh nói riêng và ở tổng Thử Cốc nói chung là một trong những nơi có cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng phát triển nhanh chóng và vững chắc nhất so với các vùng khác ở trong tỉnh. Để đáp ứng với sự đòi hỏi bức thiết và ngày một cao của phong trào, đồng thời để triển khai nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ lâm thời, một cuộc hội nghị cán bộ của tổng Thử Cốc đã được tổ chức tại nhà đồng chí Đỗ Huy Dũng (Thuần Hậu) để bàn biện pháp thống nhất chỉ đạo phong trào cách mạng trong toàn tổng. Sau đó, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành tổng uỷ gồm 13 đồng chí cán bộ cốt cán tiêu biểu của phong trào như các đồng chí: Trịnh Ngọc Điệt (Ngọc Trung), Đỗ Huy Trai, Đỗ Huy Táu, Đỗ Thị Hạm (Thuần hậu), Đỗ Đan Quế, Đỗ Đình Khánh (Xá Lê), Nguyễn Văn Phác, Nguyễn Thị Vần (Phong Cốc), Đỗ Đông Lỡ (Trung Lập), Trịnh Văn Đức (tức Tùng Đức), Trịnh Thị Đức và Trịnh Thị Vân (Long Linh Ngoại).
Sự ra đời của ban chấp hành tổng Thử Cốc đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào ở đây.
Ngày 12 tháng Giêng âm lịch (tức là ngày 11 tháng 2 năm 1939), cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng của các làng ở Xuân Minh và tổng Thử Cốc đã chính thức tham dự cuộc mít tinh lớn tuyên truyền việc thành lập Mặt trận dân chủ do Tỉnh Đảng bộ tổ chức tại làng Chiềng (tức làng Trịnh Xá Yên Định bây giờ). Cuộc mít tinh này còn có sự tham gia của quần chúng ở các huyện Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, tất cả có đến hàng mấy ngàn người mít tinh này, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý thay mặt cho Tỉnh Đảng bộ đứng lên diễn thuyết. Lần đầu tiên, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng của Xuân Minh được tham dự cuộc mít tinh lớn như vậy.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng ở đây. Thực dân Pháp và chính quyền tay sai hoảng sợ, đã vội cử tên tri phủ Phan Thanh Kỷ1 đi hành hạt đến tổng Thử Cốc để xoa dịu và trấn an quần chúng.
Ngày 12-4-1938, tri phủ Phan Thanh Kỷ sẽ chính thức đi hành hạt tới tổng Thử Cốc. Buổi sáng y sẽ dừng lại ở nửa tổng trên (tại đình làng Xá Lê) và buổi chiều dừng lại ở nửa tổng dưới (tại đình làng Phú Hậu, nay thuộc xã Thọ Trường). Biết trước được ý định đó, ban chấp hành tổng uỷ (hay còn gọi là ban cán sự tổng) đã kịp thời họp bàn để đối phó, đồng thời chủ trương tổ chức một cuộc đấu tranh đưa yêu sách đòi quyền dân sinh dân chủ nhân dịp tiếp đón Phan Thanh Kỷ.
Ngay từ buổi sáng ngày hôm đó, đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng của các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Phú Tình, Yên Thọ, Thiên Lộc và Trung Lập đã được huy động đến và tập trung rất đúng điểm qui định. Gần 1.000 người, đủ cả trẻ, già, trai, gái đều xếp hàng hai một cách nghiêm chỉnh từ ngã ba đường ở Xuân Minh đến đình Xá Lê và Mả Ăn Mày thành một đoàn người dài đến hơn 500m. Đứng ở hàng đầu là hai phụ nữ vác một tấm băng với hai khẩu hiệu lớn:
- Đón chào quan tri phủ Phan Thanh Kỷ
- Thực hiện quyền tự do dân chủ
Khoảng 8 giờ sáng, xe tây lộng vàng của tên tri phủ đến cầu Phong Cốc. Từ xa đã nhìn thấy đội ngũ chỉnh tề của đông đảo quần chúng. Phan Thanh Kỷ liền xuống xe đi bộ từ cầu vào đến đình Xá Lê. Đến ngã ba, y ngả ô chào mọi người, còn quần chúng thì chào lại bằng những nắm tay giơ lên. Tri phủ vừa đi vừa mời mọi người vào đình Xá Lê. ở đây, lực lượng quần chúng đứng ở phía tả sân đình, còn bọn tổng lý hương hào thì đứng ở phía hữu sân đình. Đồng chí Đỗ Huy Trinh được phân công đối thoại trực tiếp với Phan Thanh Kỳ. Sau khi tên tri phủ giở trò phủ dụ và trấn an dân chúng, đồng chí Đỗ Huy Trinh thay mặt cho quần chúng tiến lên nói và đề nghị được đọc một bản yêu sách. Trước tình hình đó, Phan Thanh Kỷ đành phải đồng ý để lắng nghe bản yêu sách. Đồng chí Đỗ Viết Chừng đã đứng ra đọc bản yêu sách một cách rất dõng dạc mà nội dung bao gồm những vấn đề chủ yếu như sau:
- Đòi ban bố và thực hiện quyền tự do dân chủ.
- Đòi cải cách hương tục.
- Đòi thanh toán tiền hưng công đại chẩn (tiền công đắp đường từ phủ lỵ Thiệu Hoá lên Cống Quanh, làm từ năm 1937 mà đến nay vẫn chưa được thanh toán).
- Đòi khất thuế lưu đông, v.v...
Bản yêu sách vừa đọc xong thì tất cả quần chúng đều nhất loại đồng thanh hò reo và hoan hô vang dội. Trước khí thế và áp lực của quần chúng, tri phủ Phan Thanh Kỷ phải hứa giải quyết các yêu sách ở đây. Cuộc đấu tranh đòi yêu sách đã kết thúc một cách hoàn toàn thắng lợi trong trật tự, và thắng lợi này đã góp phần làm đà cho cuộc đấu tranh buổi chiều ở nửa tổng dưới thêm khí thế.
Nói chung, đây là cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp đầu tiên được tổ chức một cách rất chặt chẽ với qui mô tương đối lớn trên địa bàn Xuân Minh và tổng Thử Cốc, nhưng cuối cùng vẫn giành được thắng lợi, làm cho khí thế cách mạng của quần chúng càng thêm sôi nổi, đồng thời còn có tác dụng hạ được uy thế của tập đoàn tay sai phản động ở địa phương.
Do kết quả của cuộc đấu tranh này mà chỉ sau đó mấy ngày, các làng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc đều được trả lại số tiền Hưng công đại chẩn, và số tiền đó đã được phát đến tận tay những người đi phu đắp đường trong năm 1937. Ngoài ra, nhà cầm quyền còn phải đồng ý để các làng dự thảo các bản điều lệ cải lương hương tục của địa phương mình để trình duyệt. Kết quả này đã làm cho quần chúng nhân dân hết sức phấn khởi và càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Để chuẩn bị cho việc kỉ niệm ngày Quốc tế lao động (1-5-1938), nhận được chỉ thị của phủ uỷ Thiệu Hoá1, ban chấp hành tổng uỷ tổng Thử Cốc đã triệu tập một cuộc họp đại biểu cốt cán của các làng tại nhà bà Lê Thị Liên (Xá Lê) để bàn cách tiến hành cuộc mít tinh. Cuối cùng tổng uỷ đã quyết định phương án lấy danh nghĩa việc đi xem hang ở núi Khoai (Yên Định) để tập hợp lực lượng quần chúng đến dự cuộc mít tinh.
Thế là, đúng ngày 1-5-1938, cuộc mít tinh kỉ niệm ngày Quốc tế lao động đã được tiến hành một cách thắng lợi. Toàn tổng có đến hơn 300 người đến dự, riêng các làng của Xuân Minh đã có tới trên 100 người. Đồng chí Đỗ Đan Quế được phân công đứng lên diễn thuyết để nói rõ về ý nghĩa của ngày Quốc tế lao động và kêu gọi quần chúng đoàn kết đấu tranh chống phát xít và bọn phản động thuộc địa để đòi tự do, hoà bình và cơm áo, v.v... Sau đó, tất cả mọi người đều nhất loạt hô vang các khẩu hiệu cách mạng. Để kết thúc cuộc mít tinh, đồng chí Nguyễn Văn Phác đã đứng lên hát bài Quốc tế ca. Tiếng hát ngân vang hùng tráng trong hang đá, có tác dụng cổ vũ kích lệ tinh thần cách mạng của mọi người.
Đến đầu tháng 6-1938, trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng của các làng ở Xuân Minh, phủ uỷ Thiệu Hoá quyết định thành lập một chi bộ ghép của 4 làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung2. Và một cuộc đại hội để thành lập chi bộ được tổ chức tại nhà bà Lý Đan (Ngọc Trung) với sự tham gia của các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Nguyễn Văn Phác, Đỗ Huy Trinh, Đỗ Huy Táu, Đỗ Huy Trai (tức Đỗ Anh Tuấn). Đồng chí Hoàng Văn Quế thay mặt phủ uỷ Thiệu Hoá tuyên bố thành lập chi bộ này. Đồng chí Trịnh Ngọc Điệt được cử làm bí thư chi bộ.
Sự ra đời của chi bộ ghép Phong Cốc Xá Lê - Thuần Hậu Ngọc Trung một lần nữa đã đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng Xuân Minh. Sự kiện này càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự lãnh đạo và thống nhất hành động cách mạng giữa các làng với nhau.
Sau thời gian này, thực hiện chủ trương của Tỉnh Đảng bộ và phủ uỷ, nhiều cuộc đấu tranh ở khu vực Xuân Minh lại liên tiếp nổ ra.
Tháng 7-1938, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và ban cán sự tổng, một cuộc vận động làm đơn lấy chữ ký gửi lên phủ đòi khất thuế lưu đông được phát động một cách thật sôi nổi ở các làng của Xuân Minh. Trong lúc đang vận động để lấy chữ ký thì cơ sở Đảng ở đây còn cử đồng chí Đỗ Huy Trai (Đỗ Anh Tuấn) và đồng chí Đỗ Thị Hạm lên tận Bái Thượng để đánh điện xuống phủ và tỉnh xin nhà cầm quyền cho dân được khất thuế sang vụ đông. Phong trào này còn phát triển mạnh mẽ ở các địa phương khác của Thiệu Hoá, Yên Định và các vùng trong tỉnh. Do đó, nhà cầm quyền đã nhượng bộ để dân chúng được khất lại 1/2 số thuế sang vụ đông.
Tiếp theo cuộc vận động đòi khất thuế lưu đông là cuộc đấu tranh đòi miễn giảm sưu thuế. Cuộc đấu tranh này kéo dài cho đến cuối năm 1938. Cơ sở cách mạng ở Xuân Minh cũng vận động được hàng trăm chữ ký phản đối dự án thuế mới để gửi lên toàn quyền Đông Dương và khâm xứ Trung kỳ. ở Xuân Minh và tổng Thử Cốc thuộc tả ngạn sông Chu, từ vụ mùa năm 1937 đến vụ mùa năm 1938 liên tiếp bị thất bát vì nạn lụt lội và hạn hán, cho nên cuộc đấu tranh đòi khất thuế lưu đông, đòi miễn giảm sưu thuế và chống dự án thuế mới đã được quần chúng nhiệt liệt hưởng ứng. ở các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, lực lượng cách mạng còn lôi kéo được một số lý hương tham gia phong trào này.
Đầu tháng 8-1938, cuộc đấu tranh đòi tiền công đắp đê quai xanh của anh em phu ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Phú Tình, Yên Thọ, Thiện Lộc và Trung Lập đã diễn ra quyết liệt tại hiện trường Cống Quanh.
Khi đê quai xanh sắp bị tràn vì mưa lũ, bọn thầu của Pháp đã can thiệp với bọn quan lại ở phủ Thiệu Hoá đưa lính đi huy động gấp dân phu tổng Thử Cốc đến đắp đê để bảo vệ cho công trường Cống Quanh đang thi công dở khỏi bị thiệt hại. Tất cả dân phu ở các làng Xuân Minh và cả làng Trung Lập đều phải nhanh chóng tập trung ở điếm Phong Cốc để xuống hiện trường. Chi bộ Đảng và Ban cán sự liên làng đã thống nhất chủ trương cho anh em phu là phải đấu tranh đòi bọn nhà thầu trả tiền công tại chỗ thì mới làm. Đồng chí Đỗ Đan Quế và một số đồng chí khác được phân công lãnh đạo cuộc đấu tranh này. Đoàn dân khu bắt đầu đi thì bọn lính kéo đến quát tháo ầm ỉ. Một tên cầm roi định đánh đồng chí Đỗ Hữu Ngoan người đi hàng đầu thì đồng chí Đỗ Huy Khuê chạy lại dằng lấy roi và nói: Các anh không có quyền đánh người, vỡ đê đã có nhà thầu lo.... Tất cả mọi người đều dô lên hưởng ứng để phản đối bọn lính. Trước khí thế của quần chúng, chúng đành im lặng để đoàn dân phu tiếp tục đi. Đến công trường Cống Quanh, đồng chí Đỗ Đan Quế thay mặt cho anh em phu đến gặp tên đề lại Bùi Xuân Chữ đòi yêu sách phải trả tiền công ngay thì anh em phu mới làm. Tên đề lại và bọn nhà thầu vẫn làm ngơ trước đề nghị này, cho nên tất cả anh em phu đều ngồi xuống và cương quyết không làm. Thấy tình hình như vậy, tên đề lại Bùi Xuân Chữ lại xoa dịu và hứa với anh em sẽ trình lên tri phủ để giải quyết. Hết buổi, đoàn dân phu vẫn không làm. Đến ngày thứ hai, bọn tri phủ và nhà thầu phải nhượng bộ giải quyết đúng yêu cầu của anh em phu. Thế là, với hành động thống nhất và rất cương quyết, cho nên cuộc đấu tranh đòi trả tiền đắp đê quai xanh tại chỗ của anh em phu đã giành được thắng lợi, làm cho quần chúng rất phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của tinh thần đoàn kết đấu tranh, đồng thời có thêm kinh nghiệm trong những cuộc đấu tranh trực diện, hợp pháp đòi quyền lợi kinh tế sau đó.
Tháng 9-1938, do phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ ở trong tỉnh ngày một lên cao, và trực tiếp là do kết quả của cuộc đấu tranh đưa yêu sách hồi tháng 4-1938 của quần chúng cách mạng tổng Thử Cốc, bọn thống trị buộc phải chấp nhận việc cải lương hương tục của các làng ở đây. Đặc biệt, trong thời gian này, tên công sứ Legredơ và tổng đốc Nguyễn Hy cùng các quan chức cao cấp khác của tỉnh và của phủ đã về tận đình làng Trung Lập để công nhận bản qui ước cải lương hương tục do lực lượng cách mạng ở đây soạn thảo. Đó là một sự kiện quan trọng, có tác dụng cổ vũ rất lớn đến phong trào đấu tranh của nhân dân ở khắp các vùng nông thôn trong huyện và trong tỉnh. Từ đó, phong trào xoá bỏ các hủ tục ma chay, cưới xin, đình đám, tế lễ, xôi cân gà lượt nặng nề, và việc đấu tranh đòi chia lại công điền công thổ, hay việc lập hội giúp đỡ nhau ở các làng của tổng Thử Cốc và Xuân Minh phát triển ngày càng mạnh mẽ và đều khắp hơn trước.
Cuối năm 1938, để đối phó và xoa dịu phong trào đấu tranh đòi cải cách dân chủ và cải thiện dân sinh đang dâng cao trong toàn tỉnh, bọn thống trị đã đưa ra một chiêu bài cải lương mị dân là bầu cử hội đồng hương chính một hình thức dân chủ giả hiệu hòng đánh lừa dư luận quần chúng. Lợi dụng hình thức này, cơ sở Đảng và ban cán sự ở các làng của Xuân Minh đã vận động quần chúng tham gia cuộc phổ thông đầu phiếu để đưa người của cách mạng vào nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hội đồng hương chính. Kết quả, ở Phong Cốc, Xá Lê và Thuần Hậu, lực lượng cách mạng gần như làm chủ toàn bộ trong hội đồng này. Tình hình đó càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phong trào cách mạng ở địa phương.
Đầu tháng 12-1938, lo sợ phong trào đấu tranh ở trong tỉnh có thể bùng nổ mạnh trong dịp kỉ niệm Quảng Châu công xã (ngày 12-12), ở một số nơi, bọn thống trị đã tính cách quản thúc chặt chẽ các chính trị phạm để trấn áp tinh thần của quần chúng. Riêng tại tổng Thử Cốc, bọn chúng đã bày đặt ra thủ đoạn buộc bọn tổng lý và tay sai ở các làng trong tổng làm đơn vu cáo những người hoạt động cách mạng lập hội kín và tổ chức vận động quần chúng chống đối lại nhà cầm quyền để lấy cớ khủng bố phong trào cách mạng ở đây. Ngay sau đó, chúng đã ra lệnh bắt 42 người của tổng (mà phần lớn là các đồng chí ở Xuân Minh). Tại công đường án sát tỉnh Thanh Hoá, mặc dù tất cả những người bị bắt đều không chấp nhận một điểm nào trong bản tố giác của bọn phản động tay sai, nhưng bọn thống trị vẫn ngang nhiên tuyên án 38 đồng chí của ta. Trong số này, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý bị chúng buộc là người cầm đầu, cho nên bị kết án 3 năm tù giam, đồng chí Trịnh Khắc Sản 2 năm tù giam, còn lại là từ 1 năm trở xuống đến tám tháng án treo.
Phải nói rằng, so với các địa phương khác ở trong tỉnh thì cuộc khủng bố của địch lúc này ở tổng Thử Cốc là lớn và sớm nhất. Mặc dù nhiều đồng chí bị bắt, nhưng đội ngũ cốt cán được đào tạo từ những năm trước đó vẫn còn lại khá đông. Các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Đỗ Đan Quế, Đỗ Huy Táu, Đỗ Anh Tuấn, Nguyễn Văn Phác và nhiều đồng chí khác ở lại vẫn tích cực tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng. Đầu năm 1939, Xuân Minh và tổng Thử Cốc vẫn là nơi có phong trào cách mạng phát triển sôi nổi và rất vững chắc. Đội ngũ lãnh đạo ở tổng, ở làng được bổ sung và kiện toàn thêm. Một số đồng chí đã trở thành cán bộ chỉ đạo phong trào của huyện và tỉnh. Thời gian này, lực lượng thanh niên và phụ nữ chiếm số đông trong các tổ chức cách mạng. Đó là một lực lượng nòng cốt hoạt động rất tích cực trong đấu tranh cách mạng ở địa phương. Phong trào vận động quyên góp tiền bạc thuốc men, quà cáp cho các chiến sĩ cách mạng đang bị giam ở nhà tù Thanh Hoá và việc vận động tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong quần chúng là hoạt động nổi bật của chị em phụ nữ lúc này.
Do phong trào của chị em phụ nữ ở Xuân Minh phát triển mạnh và rất tiêu biểu, cho nên tháng 2-1939 cơ sở Đảng Yên Định đã tổ chức một đoàn đại biểu phụ nữ của huyện sang Phong Cốc để gặp gỡ và trao đổi kinh nghiệm hoạt động với tổ chức phụ nữ ở đây.
Ngày 20-4-1939, để thống nhất việc lãnh đạo phong trào cách mạng trong toàn huyện được thuận lợi hơn, với sự chỉ đạo trực tiếp của tỉnh Đảng bộ, hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Thiệu Hoá lần đầu tiên được triệu tập tại làng Yên Lộ (Thiệu Hoá). Đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đại diện cho cơ sở Đảng ở Xuân Minh và tổng Thử Cốc được cử đi dự hội nghị này. Sau khi kiểm điểm đánh giá tình hình trong huyện, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành huyện Đảng bộ, gồm 3 đồng chí, do đồng chí Hoàng Văn Quế làm bí thư. Đây là huyện đầu tiên trong tỉnh thành lập được huyện Đảng bộ.
Đến giữa năm 1939, trước tình hình đế quốc Pháp đang ráo riết, tăng cường chuẩn bị chiến tranh và ra mặt khống chế phong trào cách mạng, Tỉnh Đảng bộ đã quyết định rời ngay cơ quan lãnh đạo ở thị xã về nông thôn (làng Yên Lộ Thiệu Hoá) để đề phòng âm mưu mới của địch. Ngày 19-6-1939, tiếp thu và vận dụng tinh thần nghị quyết của trung ương Đảng, hội nghị đại biểu Tỉnh Đảng bộ lại được tổ chức tại làng Yên Lộ để bàn biện pháp chuẩn bị chuyển hướng hoạt động công khai vào bí mật và quyết định một số phương hướng đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới.
Tại Xuân Minh và tổng Thử Cốc, cơ sở Đảng và ban cán sự ở các làng đã mở một đợt vận động quyên góp tiền bạc để ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng Nhật. Đến ngày 7-7-1939, đoàn đại biểu của Xuân Minh (gồm các đồng chí Đỗ Đan Quế, Đỗ Thị Hạm, Đỗ Huy Trai, Nguyễn Văn Phác, v.v...) sau khi mang số tiền quyên góp được để báo cáo với huyện Đảng bộ thì được huyện cử xuống Thị xã tham dự cuộc mít tinh ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Hoa ở chùa Hội Quản do Tỉnh Đảng bộ tổ chức. Tại cuộc mít tinh, đồng chí Bùi Đạt người lãnh đạo phong trào đấu tranh công khai ở Thị xã đã bị địch bắt. Liền sau đó, Tỉnh Đảng bộ đã phát động một phong trào rộng lớn đòi bọn thống trị phải trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt.
Thực hiện chủ trương trên, cơ sở cách mạng Xuân Minh đã triển khai nhanh chóng việc vận động quần chúng ký vào đơn đòi nhà cầm quyền phải trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt. Chỉ trong mấy ngày, cuộc vận động này đã được sự tham gia hưởng ứng đông đảo của quần chúng. Đồng chí Mai Văn Thìn (làng Thuần Hậu) được cử mang lá đơn với mấy trăm chữ ký của quần chúng trong các làng của tổng để xuống tỉnh gửi lên nhà cầm quyền. Mặc dù phong trào này phát triển mạnh, nhưng bọn thống trị vẫn ngoan cố không trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt.
Nhân dịp đợt kỉ niệm ngày Cách mạng Tư sản Pháp, Tỉnh Đảng bộ chủ trương phát động một phong trào quần chúng sôi nổi để biểu dương lực lượng cách mạng, đồng thời để phản đối bọn phản động thuộc địa phản bội lại tinh thần dân chủ của cuộc đại cách mạng tư sản Pháp đã giành được từ năm 1789 và kêu gọi quần chúng đoàn kết đấu tranh chống khủng bố.
Tại chợ Đu (Thiệu Hoá), một cuộc mít tinh khổng lồ với hàng mấy ngàn người tham dự đã nổ ra đúng vào ngày 14-7-1939. Gần 500 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh có kế hoạch chuẩn bị từ trước đã tập kết nhanh chóng về đình làng Long Linh Ngoại ngay từ đêm hôm đó (13-7-1939) để rạng sáng ngày 14-7 cùng lực lượng cách mạng toàn tổng vượt sông Chu về chợ Đu tham dự cuộc mít tinh với khí thế vô cùng sôi động. Tại chợ Đu, cả một rừng người được sắp xếp thành đội ngũ chỉnh tề rồi kéo về Văn chỉ tổng Xuân Lai để mít tinh, và sau đó thì biến thành cuộc biểu tình tuần hành từ đó về chợ Đu. Đoàn người vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu cách mạng: Đòi phòng thủ Đông Dương, chống khủng bố đàn áp, đòi tự do dân chủ, hoà bình và cơm áo, và các khẩu hiệu hoan nghênh cuộc đại cách mạng tư sản Pháp, hoan nghênh Liên Xô, Trung Quốc, v.v... cuối cùng là khẩu hiệu đòi trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt...
Cuộc mít tinh đã kết thúc một cách hoàn toàn trong trật tự. Bọn thống trị đưa lính đến đàn áp nhưng tất cả đều đã phân tán hết, cho nên cuối cùng không một ai bị bắt.
Có thể nói cuộc mít tinh ở chợ Đu cũng như ở chợ Neo (ngày 14-7-1939) là đỉnh cao và cũng là cái mốc cuối cùng báo hiệu sự chấm dứt của thời kỳ cao trào vận động dân chủ ở Thanh Hoá để chuẩn bị bước sang một thời kỳ mới thời kỳ vận động giải phóng dân tộc (1939-1945) vô cùng hiển hách và oanh liệt.
Ở Xuân Minh, từ sau cuộc mít tinh chợ Đu, đồng chí Đỗ Huy Táu một cán bộ đảng viên cốt cán của phong trào cơ sở, sau một đợt ốm nặng đã từ trần (ngày 15-7 âm lịch năm 1939). Chi bộ Đảng và Ban cán sự tổng chủ trương tổ chức một cuộc truy điệu và đưa đám trọng thể tại địa phương. Gần 1.000 cán bộ, đảng viên và quần chúng ở các làng của Xuân Minh và đại biểu của các cơ sở cách mạng trong, ngoài tổng đã đến đây để đưa người đồng chí đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cuộc truy điệu và đưa đám đồng chí Táu đã gây một ấn tượng sâu sắc về tình cảm cách mạng ở trong lòng quần chúng, đồng thời biểu thị sức mạnh đoàn kết chiến đấu của lực lượng cách mạng ở đây. Chính cuộc đưa đám này cũng làm cho bọn thống trị điên cuồng và tức tối.
Ngay sau đó, kẻ thù đã mở một đợt khủng bố ác liệt vào phong trào cách mạng ở trong tỉnh. Trong đợt này, một số đồng chí cán bộ chủ chốt của Tỉnh Đảng bộ đã bị bắt. Tiếp sau đó, ở Xuân Minh, các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Nguyễn Văn Phác và một số đồng chí khác cùng lần lượt sa vào lưới địch. Tuy phong trào có bị một số tổn thất nhất định, nhưng nhìn chung, do biết kịp thời rút lui vào hoạt động bí mật và biết sử dụng nguyên tắc tổ chức của Đảng, cho nên ở Xuân Minh cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ cốt cán vẫn còn tồn tại vững vàng trong sự bảo vệ và che chở của quần chúng nhân dân.
Như vậy, từ năm 1936-1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào vận động dân chủ ở Xuân Minh đã phát triển một cách mạng mẽ và liên tục. Lực lượng cách mạng ở đây vừa được đào tạo, thử thách trong những năm 1930-1931 và được khôi phục củng cố trong những năm 1931-1935 thì đến đây càng đông đảo và dày dạn kinh nghiệm trong đấu tranh. Từ trong phong trào này, một đội ngũ cán bộ nòng cốt, trung kiên được đào tạo và rèn luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng đã tỏ rõ có nhiều năng lực trong việc tổ chức, vận động quần chúng ra tranh đấu, đồng thời trở thành nguồn bổ sung cho cán bộ chỉ đạo phong trào của tổng, huyện và tỉnh.
Có thể nói đây là một thời kỳ vô cùng sôi động trong cả tỉnh và cả nước. Với một địa phương có 7 làng như Xuân Minh mà đã thấy biểu hiện một cách vô cùng phong phú, sinh động và sáng tạo trong việc vận dụng các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với những hoạt động bí mật và không hợp pháp. Nhờ đó mà hiệu quả thắng lợi thu được trong đấu tranh rất cao và thiết thực so với yêu cầu của cách mạng và quần chúng. Trong thời kỳ này, lực lượng cách mạng của Xuân Minh không chỉ vận động tại chỗ ở địa phương mà còn trở thành một lực lượng cách mạng cơ động trực tiếp tham gia hoặc hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh lớn do Tỉnh Đảng bộ tổ chức ở các địa bàn khác. Chính đây là một trận địa kiên cường vững chắc đã làm cho kẻ thù phải hoảng sợ và đối phó liên tục. Cho nên 3 năm vận động dân chủ ở Xuân Minh là 3 năm chuẩn bị và tạo ra điều kiện, nền móng vững chắc cho thời kỳ vận động giải phóng dân tộc ở địa phương phát triển nhanh chóng và thuận lợi hơn. Và những trang sử vẻ vang, oanh liệt lại được viết tiếp trong những năm 1939-1945.
IV. PHONG TRÀO VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH (1939-1945)
Đầu tháng 9-1939, đại chiến thế giới lần thứ II bùng nổ. Nước Pháp cũng nhanh chóng bước nhanh vào vòng chiến. Vừa lên cầm quyền, Chính phủ phản động Pháp đã thẳng tay đàn áp Đảng cộng sản và phong trào dân chủ ở chính nước Pháp cũng như ở các xứ thuộc địa của Pháp.
Tại Đông Dương, thực dân Pháp đã điên cuồng mở một chiến dịch khủng bố ác liệt vào phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo và xoá bỏ triệt để những thành quả mà nhân dân vừa giành lại được sau mấy năm vận động dân chủ. Để phục vụ cho mục đích chiến tranh đế quốc, thực dân Pháp đã ban bố lệnh tổng động viên để ra sức bắt lính, bắt phu và vơ vét, cướp bóc của cải của nhân dân. Một không khí khủng khiếp và căng thẳng bao trùm lên toàn xứ Đông Dương.
Tháng 9 1940, Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nước ta lại nằm trong tình trạng một cổ hai tròng áp bức của Pháp và Nhật. Với truyền thống kiên cường, bất khuất, nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy chống lại bọn xâm lược (tháng 9-1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 11-1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Tháng 1-1941, lại nổ tiếp cuộc binh biến đô lương).
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới, Trung ương Đảng liên tiếp mở những cuộc hội nghị quan trọng để quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Việt Nam trên cơ sở dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Tháng 11-1939 hội nghị Trung ương lần thứ VI (họp tại Bà điểm Gia Định) đã đề ra việc dự bị nhưng điều kiện bước tới làm cách mệnh giải phóng dân tộc và quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế thay cho mặt trận dân chủ Đông Dương. Tháng 11-1940, hội nghị Trung ương lần thứ VII (họp tại Đình Bảng Bắc Ninh) lại khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của hội nghị Trung ương lần thứ VI là đúng đắn, và đã đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự của cách mạng Đông Dương, đồng thời quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn đã tiến tới thành lập căn cứ địa du kích, lấy vùng Bắc Sơn Võ Nhai làm trung tâm. Đến tháng 5-1941, hội nghị Trung ương lần thứ VIII (họp ở Bắc Bó, Cao Bằng, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc) lại phát triển và hoàn chỉnh các nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI, lần thứ VII về sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị này đã đề ra được nhiều mục tiêu, chính sách một cách cụ thể, nhằm dương cao mạnh mẽ hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc. Hội nghị cũng quyết định thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt và Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước đều lấy tên là Hội Cứu quốc (như Hội Công nhân cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, Hội Nhi đồng cứu quốc, v.v...).
Có thể nói, sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ hội nghị Trung ương lần thứ VI đến hội nghị Trung ương lần thứ VIII là biểu hiện sự tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và chính đó là một trong những nhân tố có tính chất quyết định cho sự thắng lợi của cao trào vận động giải phóng dân tộc ở nước ta mà đỉnh cao là cách mạng tháng 8 năm 1945.
Ở Thanh Hoá, cũng từ tháng 9-1939, trước sự phát triển rầm rộ của phong trào cách mạng, thực dân Pháp đã tiến hành những cuộc truy lùng, bắt bớ rất ráo riết. Bộ máy đàn áp của địch từ tỉnh, huyện đến tận tổng và làng tăng lên chưa từng thấy cùng với những thủ đoạn tàn bạo, xảo quyệt, hòng bóp chết phong trào cách mạng ở tỉnh ta. Mật thám lúc này khá dày đặc, ở khu vực nào cũng thấy có lính dõng và tuần phiên canh gác với những điếm canh chi chít để khống chế và truy lùng cách mạng.
Sự khủng bố của địch trong những tháng cuối năm 1939 đã gây cho Đảng bộ và phong trào cách mạng Thanh Hoá nhiều tổn thất. Hầu hết cán bộ lãnh đạo và đảng viên ưu tú từ tỉnh đến cơ sở đều bị địch bắt. Phong trào cách mạng của tỉnh tạm thời gặp khó khăn và thiếu một sự chỉ huy chung.
Giữa lúc kẻ thù tập trung lực lượng đánh phá dữ dội vào phong trào cách mạng ở trong tỉnh thì tại khu vực Xuân Minh và tổng Thử Cốc, mặc dù một số cán bộ, đảng viên cốt cán bị bắt, nhưng do giữ vững được những nguyên tắc tổ chức của Đảng và kịp thời rút lui vào hoạt động bí mật, cho nên cơ sở Đảng và các tổ chức cách mạng vẫn còn tồn tại khá nguyên vẹn trong sự đùm bọc của nhân dân. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng để cắt nghĩa vì sao phong trào cách mạng của Xuân Minh lại mau chóng được hồi phục, phát triển nhanh chóng và sớm hơn so với một số vùng khác. Trong vòng vây bủa của quân thù, những cán bộ, đảng viên và chiến sĩ cách mạng còn lại của Xuân Minh vẫn bền bỉ, kiên trì vượt qua mọi thử thách khó khăn và bám sát cơ sở để củng cố tổ chức, củng cố phong trào, đồng thời tìm mọi cách để bắt liên lạc với các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh nhằm góp phần củng cố, khôi phục lại Đảng bộ và phong trào cách mạng Thanh Hoá nói chung.
Có thể nói, toàn bộ cơ sở Đảng là lực lượng cách mạng ở Xuân Minh được bảo tồn khá nguyên vẹn trong lúc này đã là một thắng lợi đáng kể. Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là phải nhanh chóng củng cố và giữ vững tinh thần của quần chúng, đồng thời phát động các cuộc đấu tranh chống lại sự khủng bố của địch.
Cuối năm 1939, tại nhà bà Đỗ Thị Hâng (Ngọc Trung) một số cán bộ cốt cán của tổng Thử Cốc (như các đồng chí Đỗ Anh Tuấn, Đỗ Huy Dũng (Thuần Hậu), Nguyễn Xuân Oanh, Đỗ Văn Bảo (Phong Cốc), Đỗ Đan Quế (Xá Lê), Trịnh Văn Đức (Long Linh Ngoại), v.v...) đã tự nhóm họp để bàn biện pháp đối phó với những âm mưu khủng bố của địch, đồng thời cử một số đồng chí đến các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh để tìm cách bắt liên lạc với Đảng cấp trên. Đồng chí Đỗ Đan Quế được cử đi vùng Thọ Xuân, đồng chí Nguyễn Xuân Oanh đi vùng Yên Định, đồng chí Đỗ Anh Tuấn đi vùng Thiệu Hoá. Đứng trước tình hình bọn tay sai chức dịch càng ngày càng lộ rõ bộ mặt phản động và hống hách trắng trợn hơn trước, cho nên hội nghị cán bộ tổng đã đề ra chủ trương hạ uy thế cường hào bằng hình thức cảnh cáo những tên ngoan cố đầu sỏ để củng cố tinh thần quần chúng.
Thực hiện chủ trương trên, cơ sở cách mạng ở các làng của Xuân Minh đã tiến hành nhiều biện pháp có hiệu quả để phân hoá hàng ngũ tay sai ở địa phương và cô lập những tên ngoan cố đầu sỏ. Đặc biệt, ở làng Phong Cốc, các đồng chí cán bộ cốt cán đã tổ chức một cuộc đánh cảnh cáo tên hương kiểm Đỗ Văn Đặc và vận động quần chúng không đến đưa đám ma Đỗ Hữu Khải bố của tên Hào Văn đầu sỏ cường hào. Sau hai vụ này, đồng chí Đỗ Văn Bảo và Đỗ Văn Đam bị địch bắt giam nửa tháng, nhưng kết quả là đã làm cho khí thế của quần chúng được nâng lên, còn bọn cường hào và tay sai chức dịch cũng giảm bớt sự huênh hoang hống hách hơn trước. Phải nói rằng, việc tranh thủ phân hoá trong hàng ngũ tay sai của địch trong thời điểm này ở địa phương là một việc làm cần thiết, có tác dụng quan trọng trong việc góp phần bảo vệ cơ sở cách mạng và phát triển lực lượng trước khi Xuân Minh bước vào thời kỳ đấu tranh sôi nổi, quyết liệt hơn.
Từ cuối năm 1939 đến những tháng đầu của năm 1940, mặc dù các tổ chức quần chúng không được hoạt động công khai như trước, nhưng dưới sự lãnh đạo sâu sát của các đồng chí cán bộ, đảng viên, những hình thức tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong quần chúng vẫn được duy trì và phát triển. Các hội viên ái hữu cũ vẫn bí mật liên lạc, sinh hoạt, đóng hội phí và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào tiền đồ của cách mạng.
Sau mấy tháng đấu tranh chống khủng bố, phong trào ở Xuân Minh và một số vùng trong tỉnh đang có chiều hướng hồi phục và phát triển thì vào tháng 2-1940, xứ uỷ Trung kỳ đã cử đồng chí Đào Duy Dếnh ra Thanh Hoá tìm bắt liên lạc với Đảng bộ ta để truyền đạt nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI. Thông qua đường dây bạn bè, đồng chí Đào Duy Dếnh đã bắt được liên lạc với cơ sở cách mạng ở thị xã và Hoằng Hoá. Cuối tháng 3-1940, tại một cuộc họp được tổ chức tại Bút Sơn (Hoằng Hoá), đồng chí Đào Duy Dếnh đã trực tiếp truyền đạt nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI (11-1939) và trao nhiều tài liệu quan trọng cho Đảng bộ Thanh Hoá. Sau đó, hội nghị còn bàn những biện pháp tuyên truyền và tổ chức để thúc đẩy phong trào cách mạng Thanh Hoá phát triển phù hợp với tình hình mới.
Đến tháng 5-1940, tại nhà riêng của đồng chí Đỗ Đông Uyên ở Thị xã, một cuộc họp được tổ chức, đã thành lập ra ban vận động phản đế tỉnh (gồm các đồng chí Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Văn Bân, Đỗ Đồng Uyên, Nguyễn Chơn, Đỗ Anh Tuấn...) và thảo luận việc phân công bắt liên lạc với các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh để truyền đạt nghị quyết VI của Trung ương và vận động việc thành lập Mặt trận phản đế. Đồng chí Nguyễn Đức Nhuận được cử làm trưởng ban vận động này. Hội nghị còn quyết định việc tìm bắt liên lạc với đồng chí Lê Huy Toán một đồng chí Tỉnh uỷ viên của thời kỳ Mặt trận Dân chủ còn sót lại hiện đang hoạt động tích cực trong việc củng cố phong trào ở vùng Thiệu Hoá, Yên Định để thống nhất hành động.
Sau cuộc họp này, các đồng chí Đỗ Đông Uyên, Đỗ Anh Tuấn (Đỗ Huy Khuê) được phân công về Thiệu Hoá mà trước tiên là ở tổng Thử Cốc để hoạt động với đầy đủ các tài liệu được sao sẵn từ thị xã (như nghị quyết Trung ương lần thứ VI, điều lệ Đảng cộng sản Đông Dương, bản hiệu triệu thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế ĐôngDương, bài báo giải thích hiệp ước Xô - Đức, v.v...). Chỉ trong một thời gian ngắn, các đồng chí đã nhanh chóng thành lập được các ban vận động phản đế ở một số làng như Thuần Hậu, Xá Lê, Phong Cốc, Ngọc Trung và Long Linh Ngoại. Lúc đầu, một số người được kết nạp vẫn còn rất hạn chế vì chỉ chọn lọc những đồng chí trung kiên nhất vừa thử thách sau những tháng vừa qua. Nhưng nhờ có đường lối của nghị quyết Trung ương chỉ dẫn và soi đường, cho nên phong trào cách mạng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc lại có điều kiện thuận lợi để phát triển cả bề rộng, lẫn bề sâu.
Đến đầu tháng 6-1940, ban vận động Mặt trận phản đế cứu quốc Tỉnh đã triệu tập một cuộc họp tại nhà đồng chí Đỗ Huy Khuê (làng Thuần Hậu- Xuân Minh), gồm hơn 10 đại biểu của Thị xã, Hoằng Hoá, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định và Vĩnh Lộc để bàn biện pháp triển khai nhanh chóng nghị quyết Trung ương lần thứ VI. Sau đó, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành Tỉnh uỷ phản đế lâm thời gồm 3 đồng chí: Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Văn Bân, Đỗ Đông Uyên, do đồng chí Nguyễn Đức Nhuận làm Bí thư.
Như vậy, lần đầu tiên, sau những tháng khủng bố ác liệt, tại Xuân Minh, cuộc hội nghị đại biểu của các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh đã được tổ chức và bảo vệ an toàn. Điều đó cũng chứng tỏ sự vững chắc của phong trào cách mạng ở đây. Sau cuộc họp này, cơ sở cách mạng Xuân Minh còn nhận được một số truyền đơn của tỉnh uỷ phản đế lâm thời để gửi đi một số nơi quanh vùng. Kết quả là đã kích thích và cổ vũ được tinh thần của quần chúng.
Cũng thời gian trên, ở Thọ Xuân, đồng chí Trần Hoạt (tức Trần Bảo) cùng một số cán bộ, đảng viên còn sót lại, sau khi khôi phục được các cơ sở cách mạng ở Kim ốc, Phúc Bồi, Nam Thượng và phát triển rộng ra ở một số địa phương khác thì bắt được liên lạc với xứ uỷ Bắc kỳ và được tiếp thu tinh thần của nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI. Sau đó, cơ sở Đảng của Thọ Xuân đã nhanh chóng cho ra đời một tờ báo bí mật lấy tên là Tự do và cuốn sách Những điều cần biết của người cộng sản một tài liệu quan trọng dựa trên tinh thần nghị quyết VI để biên soạn lại nhằm tuyên truyền sâu rộng cho việc xây dựng Mặt trận phản đế cứu quốc của tỉnh nhà.
Bên cạnh đó, những cơ sở cách mạng ở Thiệu Hoá, Yên Định và Vĩnh Lộc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Huy Toán cũng đã mở rộng được sự liên lạc ra các vùng lân cận.
Có thể nói, do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử đặc biệt của thời kỳ khủng bố ở những tháng cuối năm 1939 mà các nhóm cộng sản còn lại của các địa phương trong tỉnh đã hoạt động một cách biệt lập theo hệ thống đường dây liên lạc riêng ở những khu vực rộng hẹp khác nhau. Do đó, mặc dù cơ sở cách mạng ở nhiều nơi trong tỉnh đã được hồi phục, nhưng thực chất vẫn chưa qui được về một mối, cho nên phong trào phát triển vẫn còn rời rạc, lẻ tẻ và mang nhiều tính chất cục bộ địa phương. Tình trạng này vẫn còn tồn tại cho đến cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm 1940. Trong khi đó, lưới kiểm soát của kẻ thù thì vẫn còn dày đặc, và mọi hoạt động cách mạng lúc này vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn.
Cuối tháng 9 1940, do sơ xuất của một đồng chí cán bộ đã để lọt tài liệu vào tay mật thám, cho nên kẻ thù phát hiện được tổ chức bí mật ở Thị xã và tiến hành khủng bố. Các đồng chí Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Văn Bân và một số đồng chí khác đã lần lượt sa vào lưới địch. Đồng chí Đỗ Đông Uyên cũng bị bắt nhưng đã trốn thoát về tổng Thử Cốc để hoạt động. ở Hồ Bái (Yên Định), địch cũng tiến hành một cuộc khủng bố và bắt bớ một số đồng chí trong vụ rải truyền đơn phản đối chiến tranh phát xít và phản đối thực dân Pháp nhường sân bay và cảng Hải Phòng cho Nhật.
Trước tình hình như vậy, một yêu cầu vô cùng cấp thiết được đặt ra lúc này là phải nhanh chóng thống nhất lực lượng và hành động cách mạng trong toàn tỉnh về một mối theo tinh thần nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI thì phong trào mới có thể phát triển mạnh mẽ, sôi nổi và đều khắp được. Trong thực tế thì giữa các nhóm cũng đã bắt đầu có sự liên lạc với nhau và thấy rõ sự cần thiết là phải thống nhất về mặt tổ chức và lực lượng cách mạng thì mới có thể lái phong trào đi đúng quĩ đạo của Đảng. Lúc này, vùng Xuân Minh mà đặc biệt là nhà đồng chí Đỗ Huy Trinh (làng Thuần Hậu) đã trở thành một địa điểm liên lạc chung của các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh.
Thế là đến tháng 11-1940, sau một thời gian tìm hiểu, bàn bạc thống nhất, và lại được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Bùi San Xứ uỷ viên Trung kỳ, một cuộc hội nghị đại biểu các cơ sở Đảng ở trong tỉnh đã được triệu tập chính thức tại nhà đồng chí Đỗ Huy Kính (làng Thuần hậu, tổng Thử Cốc, huyện Thiệu Hoá) để thống nhất về mặt tổ chức và lực lượng cách mạng theo tinh thần của nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI. Hội nghị đã đề ra việc củng cố, phát triển Đảng và việc đẩy mạnh phong trào phản đế cứu quốc trong toàn tỉnh với sự chú trọng đặc biệt vào việc xây dựng các đoàn thể phản đế cứu quốc và tự vệ phản đế cứu quốc. Để tiến tới thành lập Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ, hội nghị đã cử ra một ban cán sự gồm 3 uỷ viên, do đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.
Hội nghị này được lực lượng cách mạng Xuân Minh mà trước hết là trực tiếp là ở làng Thuần Hậu bảo vệ an toàn. Đây là một thắng lợi to lớn và là một bước tiến mới của phong trào cách mạng Thanh Hoá. Chính trong những ngày tháng ấy, cơ sở cách mạng Xuân Minh cũng đã đóng góp một phần đáng kể vào việc thống nhất của tổ chức và lực lượng cách mạng trong toàn tỉnh. Tại đây, phong trào phản đế cứu quốc ở Xuân Minh và các địa phương trong tỉnh đã thực sự bước sang một giai đoạn cực kỳ sôi nổi và oanh liệt.
Sau hội nghị tháng 11-1940, Ban cán sự tỉnh quyết định chuyển cơ quan in về đóng tại khu vực Xuân Minh, và tại đây, tờ báo Tự do của cơ sở Đảng Thọ Xuân được tiếp tục ấn hành thành cơ quan ngôn luận của Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh. Trong thời gian ở Xuân Minh, cơ quan in của Mặt trận phản đế tỉnh mặc dù phải chuyển địa điểm từ làng này đến làng khác, nhưng ở đâu cũng được bảo vệ một cách an toàn và chu đáo. Nhiều cán bộ, Đảng viên và quần chúng ở các làng Thuần Hậu, Xá Lê, Phong Cốc, Phú Tình và Thiên Lộc đã tự nguyện ủng hộ tiền bạc, thóc gạo và các phương tiện cần thiết để phục vụ cơ quan in. Cũng do cơ quan in của tỉnh đóng ở địa phương, cho nên lực lượng cách mạng ở các làng của Xuân Minh đã sớm nắm bắt được các đường lối chủ trương của Đảng để kịp thời hướng dẫn mọi hoạt động đi đúng quĩ đạo và phát triển nhanh chóng.
Cũng từ cuối năm 1940 trở đi, khu vực Xuân Minh đã trở thành một địa bàn cách mạng trọng yếu và nơi đứng chân vững chắc của Đảng bộ tỉnh nhà. Nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo của tỉnh, huyện đã thường xuyên qua lại đây để hoạt động và liên lạc với nhau, đồng thời trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng của Xuân Minh phát triển một cách toàn diện và vững chắc.
Đầu năm 1941, các hội nông dân phản đế cứu quốc, thanh niên phản đế cứu quốc, phụ nữ phản đế cứu quốc ở tất cả các làng đều đã hình thành và phát triển. Riêng làng Thuần Hậu, Xá Lê, Phong Cốc, Hội thiếu nhi phản đế cứu quốc cũng được tổ chức và hoạt động rất tích cực. ở làng nào cũng thành lập được lực lượng tự vệ trên cơ sở chọn lọc những hội viên phản đế cứu quốc trung kiên và hăng hái. Đặc biệt, tại các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, lực lượng tự vệ đã có từ 30-40 người và được biên chế thành một trung đội.
Sự ra đời của lực lượng tự vệ phản đế cứu quốc lúc này là một động lực và hậu thuẫn quan trọng để thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh mẽ. ở các làng, quần chúng nhân dân đã phấn khởi và tự nguyện đóng góp tiền bạc, thóc gạo, quần áo, vũ khí để trang bị cho tự vệ. Mặc dù vừa mới ra đời nhưng lực lượng tự vệ Xuân Minh đã hoạt động rất tích cực và có hiệu quả trong việc canh gác các hội nghị bí mật của tỉnh, của tổng và của làng, hoặc liên lạc, đưa đón bảo vệ các cán bộ cách mạng trong và ngoài địa phương.
Cuối tháng 1-1941, tại nhà bà Trịnh Thị Hâng (tức bà Cựu Đan) Ngọc Trung, hội nghị thành lập ban tổng uỷ phản đế cứu quốc của tổng Thử Cốc đã được tổ chức. Các đồng chí Đỗ Anh Tuấn, Đỗ Huy Dũng, Đỗ Đan Quế, Đỗ Văn Bảo, Trịnh Văn Hoằng, Trịnh Khắc Chuỷ và một số đồng chí khác đã được bầu vào tổng uỷ để lãnh đạo phong trào ở các làng trong tổng.
Tháng 2-1941, sau khi nhận được Thông cáo khẩn cấp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và được tiếp thu tinh thần nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VII (11-1940) về vấn đề hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa thì hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh đã được triệu tập chính thức tại nhà đồng chí Nguyễn Xuân Oanh, làng Phong Cốc. Một lần nữa, cơ sở cách mạng Xuân Minh lại vinh dự được chọn làm địa điểm cho hội nghị lịch sử quan trọng này. Một số đồng chí cán bộ chủ chốt đại diện cho cơ sở cách mạng của Xuân Minh cũng được tham dự hội nghị.
Sau hai ngày làm việc, hội nghị đã quyết định phát động một phong trào đấu tranh rộng lớn trong toàn tỉnh để hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ với nội dung chống thuế, chống bắt phu, bắt lính. Hội nghị còn quyết định việc xây dựng và mở rộng vành đai căn cứ địa cách mạng ở các vùng ven rừng núi từ đông bắc đến tây nam tỉnh, tiến tới thành lập chiến khu cách mạng để chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ đến. Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ gồm 11 đồng chí, do đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.
Hội nghị Phong Cốc đã trở thành một sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển to lớn của phong trào cách mạng Thanh Hoá. Từ đây, cao trào vận động phản đế cứu quốc của tỉnh ta bắt đầu dâng cao chưa từng thấy.
Đóng góp cho sự thành công của hội nghị, cơ sở cách mạng Xuân Minh mà trực tiếp là làng Phong Cốc đã tỏ rõ là một chỗ đứng chân vững chắc của Đảng. Trong điều kiện hoạt động bí mật, cán bộ, đảng viên, tự vệ và quần chúng cách mạng ở đây đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ đưa đón, bảo vệ và phục vụ các đại biểu được an toàn, chu đáo trong thời gian hội nghị tiến hành tại địa phương.
Từ sau hội nghị Phong Cốc (2-1941), phong trào cách mạng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc càng có thêm những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Các đồng chí cán bộ thoát ly của tỉnh liên tiếp về đây để chỉ đạo trực tiếp phong trào cho đến tận từng làng. Từ tháng 2 đến tháng 6-1941, các tổ chức phản đế cứu quốc đã phát triển rộng khắp ở tất cả 7 làng. Lúc này, sự tham gia tích cực vào tổ chức và hoạt động cách mạng của chị em phụ nữ đã trở thành phổ biến. Một số chị em đã tỏ rõ năng lực hoạt động của mình trong chỉ đạo phong trào và trong việc vận động quần chúng ra tranh đấu, v.v... ở các làng, lực lượng tự vệ, ngày càng được bổ sung thêm nhiều đội viên trung thành và hăng hái. Riêng làng Phong Cốc, Thuần Hậu và Xá Lê, do con số tăng nhanh, cho nên lực lượng tự vệ đã được biên chế thành đại đội, còn ở các làng khác thì chỉ có một trung đội. Sự ra đời, phát triển và hoạt động của lực lượng tự vệ đã làm cho khí thế của phong trào ở địa phương lên rất cao. Đêm đêm, tự vệ của các làng đều tổ chức luyện tập quân sự, thật sôi động. Các làng như Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê còn tìm các địa điểm bí mật để tổ chức luyện tập cả ban ngày. Việc trang bị và ủng hộ cho lực lượng tự vệ cũng được quần chúng hưởng ứng rất đông đảo.
Lúc này, tổ chức tuần phiên của chính quyền địch ở các làng chỉ còn là hình thức vì hầu hết đều là người của lực lượng cách mạng cài vào. Các đội tự vệ đã lợi dụng tổ chức này hoạt động và canh gác công khai để bảo vệ cán bộ và cơ sở cách mạng ở địa phương. Ngoài ra, sự phân hoá chính quyền tay sai ở các làng còn được triển khai rất hiệu quả. Một số lý hương được giác ngộ, thấy khí thế của quần chúng lên cao cũng ngả về phía cách mạng, một số khác thì lừng khừng nằm im và không dám dở hành động gì để chống đối lại. Trong hoàn cảnh lúc này, việc vận dụng sách lược mềm dẻo để phân hoá, tranh thủ hoặc trung lập hàng ngũ tay sai địch và sử dụng các hình thức hoạt động hợp pháp sẵn có là một biểu hiện đúng đắn, sáng tạo của lực lượng cách mạng Xuân Minh, và điều ấy cũng góp phần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phong trào tại địa phương.
Như vậy, từ tháng 1-1941 trở đi, bên cạnh việc củng cố, phát triển các đoàn thể cứu quốc và lực lượng tự vệ, cả 7 làng của Xuân Minh đều đã phát động được phong trào hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ... khởi nghĩa thật sôi nổi. Nhiều cuộc họp tuyên truyền việc ủng hộ mặt trận phản đế cứu quốc, ủng hộ tự vệ đội và kêu gọi chống bắt phu, bắt lính, chống quốc trái, lạc quyên, chống sưu cao thuế nặng được tổ chức liên tiếp và sâu rộng ở các làng. Truyền đơn cách mạng của cơ quan in của Tỉnh Đảng bộ đóng ở đây được phân phát rải đi khắp nơi. Tín phiếu cứu quốc do Tỉnh Đảng bộ phát hành thời gian này cũng được đông đảo quần chúng Xuân Minh hưởng ứng.
Đến tháng 5-1941, để phục vụ mục đích chiến tranh, bọn thống trị đã thực hiện việc tăng sưu thuế một cách gay gắt. Chính sách phản động đó đã gây nên sự bất bình mới cho nông dân cả tỉnh. Với kinh nghiệm đấu tranh chống thuế trong thời kỳ vận động dân chủ, một phong trào đòi miễn giảm sưu thuế, đòi khất thuế lưu đông được phát động và diễn ra quyết liệt ở nhiều địa phương trong tỉnh. Tại Xuân Minh, phong trào này bùng lên nhanh chóng ở tất cả các làng và được quần chúng hưởng ứng rất nhiệt liệt. Những hình thức phổ biến lúc đầu là làm đơn lên nhà cầm quyền kêu mất mùa và đòi hoãn, hoặc giảm thuế. ở một vài làng, quần chúng cách mạng còn lôi kéo được một số lý hương, địa chủ và phú nông tham gia phong trào này. Khi bọn thống trị đã bắt đầu có sự phản ứng thì phong trào chống thuế lại diễn ra ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. ở làng Phong Cốc, Xá Lê khi binh lính về làng để đốc thuế thì quần chúng đều tuyên bố công khai không nạp thuế. ở làng Thuần Hậu, quần chúng còn đem tất cả số thuế đã thu được để nhập vào quĩ cứu quốc của địa phương. Được sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng tự vệ, phong trào chống thuế của quần chúng đã làm cho bộ máy chính quyền tay sai tại địa phương gần như bị tê liệt.
Hoảng hốt trước sự lớn mạnh của phong trào quần chúng và cay cú về sự bất lực của việc thu vét sưu thuế ở nhiều địa phương, bọn thống trị lồng lộn, điên cuồng điều động binh lính tiến hành những cuộc truy lùng, bắt bớ, để khám phá, triệt hạ các cơ sở cách mạng, đồng thời dở trò ức hiếp, đánh đập và cướp giật tài sản của nhân dân. Mặc dù vấp phải sự phản kháng của kẻ thù, nhưng phong trào chống thuế ở Xuân Minh và nhiều nơi trong tỉnh vẫn diễn ra ngày càng rộng lớn và sôi nổi hơn. Về hình thức thì đây là một phong trào đấu tranh kinh tế, nhưng thực chất lại mang tính chất chính trị sâu sắc, vì trong thực tế diễn ra, phong trào này đã tập hợp được đông đảo quần chúng nông dân đứng lên trực tiếp đánh thẳng vào chính sách thống trị phản động của kẻ thù. Và qua kết quả của phong trào đấu tranh chống thuế thì quần chúng càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đoàn kết chặt chẽ bên nhau trong cùng một tổ chức là mặt trận phản đế cứu quốc. Tuy nhiên, ở một số cơ sở cách mạng, với khí thế phong trào đang lên, đã biểu hiện một số tư tưởng tả khuynh và chủ quan khinh địch như hoạt động một cách quá công khai mà xem nhẹ những nguyên tắc hoạt động bí mật, do đó đã dẫn đến việc bộc lộ lực lượng hơi sớm để cho địch có thể tiến hành khủng bố trong lúc về tổ chức, về phong trào đang đòi hỏi được sự củng cố vững chắc hơn.
Ở Xuân Minh, do nguyên tắc hoạt động bí mật vẫn được giữ vững và biết kết hợp một cách khéo léo với các hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp, cho nên từ cuối tháng 5-1941 trở đi, mặc dù bọn thống trị đã đến lùng sục ở một số làng, nhưng về tổ chức và phong trào vẫn được giữ vững và không bị tổn thất gì đáng kể.
Thời gian này, cán bộ, đảng viên ở một số cơ sở cách mạng của huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá là những nơi đầu tiên trong tỉnh bị địch khủng bố đều thoát ly về vùng Xuân Minh. Và tại đây, các cán bộ cách mạng lại tiếp tục có điều kiện để hoạt động và đều được bảo vệ một cách an toàn, chu đáo. Chính vì thế mà trong hội nghị Tỉnh uỷ (6-1941), ở làng Phúc Tĩnh (Yên Định), sau khi kiểm điểm, đánh giá lại phong trào và uốn nắn lại những lệch lạc của phong trào, đồng thời quyết định việc triển khai xây dựng căn cứ địa tại các vùng từ đông bắc đến tây nam để tiến tới thành lập chiến khu cách mạng thì Xuân Minh vẫn là nơi được chọn làm địa điểm cho đại hội Mặt trận phản đế cứu quốc của toàn tỉnh.
Cuối tháng 6-1941, hơn 60 đại biểu ở các cơ sở cách mạng trong toàn tỉnh đã tập trung về làng Xá Lê1 (Xuân Minh) để tham dự cuộc đại hội Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hoá. Đại hội đã kiểm điểm lại việc thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh (2-1941) và nhất trí thông qua chủ trương xúc tiến nhanh chóng việc xây dựng vành đai căn cứ địa cách mạng, phát triển mạnh mẽ lực lượng vũ trang. Cuối cùng, đại hội đã bầu một ban chấp hành Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh (lúc đó gọi là Tỉnh uỷ phản đế) do đồng chí Trịnh Ngọc Phước làm Bí thư.
Sự thành công của đại hội Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh lúc này là biểu hiện sự lớn mạnh của phong trào phản đế cứu quốc Thanh Hoá, đồng thời cũng chứng tỏ sự hưởng ứng tích cực khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ theo tinh thần Thông cáo khẩn cấp của Ban thường vụ Trung ương Đảng ở tỉnh ta đã trở thành một hiện thực rất đáng kể. Một lần nữa, trong điều kiện kẻ thù đang tiến hành những cuộc lùng sục và vây ráp để đánh phá phong trào cách mạng ở các địa phương trong tỉnh thì khu vực Xuân Minh vẫn là nơi đứng chân vững chắc của Đảng bộ tỉnh nhà, cán bộ, Đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh đã bảo vệ an toàn và nuôi nấng chu đáo hơn 60 đại biểu về dự cuộc đại hội này. Có thể nói, đây là một cuộc đại hội bí mật lớn nhất từ trước đến giờ. Lực lượng tự vệ Xuân Minh qua thử thách càng có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ cán bộ và các hội nghị quan trọng ở địa phương mình. Ngay sau đó, tại nhà bà Lê Thị Liên (Xá Lê) cuộc hội nghị cán bộ của tổng Thử Cốc cũng được triệu tập cấp tốc để bàn biện pháp, triển khai nghị quyết của đại hội này.
Đầu tháng 7-1941, tại hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá, binh lính địch vẫn tiếp tục những cuộc truy lùng và bắt bớ suốt ngày đêm. Quần chúng cách mạng ở những nơi đó đã bắt đầu bị o ép nặng nề. Trước tình hình đó, Đảng bộ Thanh Hoá vẫn quyết định tiếp tục đẩy mạnh mọi hoạt động theo phương án đã định. Việc xây dựng chiến khu Ngọc Trạo được xúc tiến khẩn trương và được phổ biến kịp thời xuống tận các cơ sở cách mạng để có kế hoạch chi viện và phối hợp nhịp nhàng.
Ở Xuân Minh, do được sự chỉ đạo sát sao và trực tiếp của các đồng chí cán bộ tỉnh cho nên đã kịp thời hạn chế và ngăn chặn được những khuynh hướng công khai, manh động tại các làng. Chấp hành nghiêm chỉnh thông cáo của Tỉnh uỷ gửi các đồng chí cứu quốc trong tỉnh, tất cả mọi lực lượng và cơ sở cách mạng của Xuân Minh đã rất chú trọng đến những nguyên tắc hoạt động bí mật, đồng thời tiếp tục củng cố lực lượng tự vệ và chọn lọc những người hăng hái, trung kiên nhất để tiến tới việc thành lập các tiểu tổ du kích. Tất cả các đồng chí bị lộ diện lúc này đều được lệnh thoát ly sang hoạt động ở vùng Yên Định và tham gia đi xây dựng chiến khu Ngọc Trạo, một số khác lại được chọn làm cán bộ chỉ đạo phong trào và giao thông liên lạc cho tỉnh, còn những đồng chí chưa bị lộ diện thì vẫn bám sát cơ sở để tiếp tục củng cố tổ chức và thúc đẩy phong trào.
Thời gian này, một cuộc họp gồm tất cả các đồng chí cán bộ chủ chốt của các làng trong khu vực Xuân Minh đã được tổ chức tại làng Thuần Hậu với sự tham dự của các đồng chí cán bộ của Tỉnh như đồng chí Trịnh Ngọc Phước, Ba Dốt, Lê Xuân Tại để bàn biện pháp ngăn chặn những âm mưu khủng bố của địch và thống nhất chủ trương đánh tháo cho những người cán bộ bị địch bắt.
Ngày 8/7/1941 (tức là ngày 14/6 âm lịch) địch bắt được đồng chí Đỗ Huy Chúc ở làng Thuần Hậu và khám phá cơ quan in của Tỉnh ở nhà đồng chí Tuyênh (Xá Lê)... Cương quyết không để cán bộ và tài liệu rơi vào tay địch, nhận được lệnh của cấp trên, lực lượng tự vệ của cả 3 làng Thuần Hậu, Xá Lê và Phong Cốc đã nhanh chóng triển khai đội hình để thi hành nhiệm vụ. Kết quả là đã đánh tháo được đồng chí Đỗ Huy Chúc, nhưng bàn in và một số tài liệu thì bị để trật mất vì địch lại mang đi theo đường ra Phong Lai để theo đường sông xuống Thiệu Hoá.
Ngay 11 giờ trưa ngày hôm sau (9-7-1941), các đồng chí trong ban cán sự và những đồng chí cán bộ chỉ huy của lực lượng tự vệ làng Phong Cốc đã tổ chức một cuộc họp tại Bái Tham Biểu để rút kinh nghiệm về cuộc đánh tháo vừa qua và đề ra những biện pháp để đối phó với những âm mưu mới của địch. Cuộc họp vừa tan thì lại có tin là địch lại bắt được các đồng chí Nguyễn Văn Thống, Đỗ Viết Phượng (Phong Cốc) và đồng chí Đỗ Đình Khiêu (Xá Lê). Thế là đúng 2 giờ chiều ngày hôm đó, trận địa đánh tháo của lực lượng tự vệ làng Phong Cốc được bố trí hết sức chu đáo dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Đỗ Văn Niết và đồng chí Đỗ Hữu Ngoan. Lúc này, một bộ phận được phân công mai phục ở rãnh Cù Quỷnh (đường đi xuống Nỗ Đào) và một bộ phận lại được phân công mai phục ở rãnh Chùa Con (đường đi Phong Lai), còn đồng chí đại đội trưởng tự vệ Đỗ Văn Niết thì cầm hiệu lệnh và đứng ở Bái Tham Biểu quan sát tình hình địch để chỉ huy. Đến 3 giờ chiều, thấy bọn lính với đầy đủ khí giới giải ba đồng chí Nguyễn Văn Thống, Đỗ Viết Phượng, Đỗ Đình Khiêu đi theo đường cái lớn để ra thẳng làng Thạc thì đồng chí Đỗ Văn Niết thổi ba hồi tù và báo động. Tiếng tù và vừa dứt thì tất cả lực lượng tự vệ và đông đảo quần chúng chạy lên đường chặn đứng bọn lính lại. Chị Đỗ Thị Khoan được lệnh cầm liềm cắt dây trói cho hai đồng chí Nguyễn Văn Thống và Đỗ Viết Phượng chạy thoát (còn đồng chí Đỗ Đình Khiêu vì đang ốm, không thể dậy được). Trước sự áp đảo của lực lượng quần chúng và tự vệ, bọn lính run sợ không giám chống cự lại. Sau đó, lực lượng đánh tháo đã được phân tán một cách nhanh chóng đi nơi khác.
Ngay tối hôm đó, dưới sự chủ trì của đồng chí Trịnh Ngọc Phước và đồng chí Ba Dốt, một cuộc họp với tất cả cán bộ và lực lượng tự vệ cốt cán được triệu tập tại Bái Đình để rút kinh nghiệm về cuộc đánh tháo này. Hội nghị đều nhất trí nhận định kẻ địch thế nào cũng quay lại đàn áp và khủng bố, cho nên đã quyết định những đồng chí bị lộ diện sẽ tiếp tục thoát ly sang những cơ sở cách mạng khác để hoạt động, còn những đồng chí khác ở lại địa phương phải tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống lại âm mưu khủng bố của địch. Cuộc họp kéo dài đến gần sáng vẫn chưa kết thúc. Sợ lộ, tất cả đều rút vào chùa để họp tiếp.
Đến 3 giờ chiều ngày 10/7/1941, phát hiện có cán bộ đang ở trong chùa Phong Cốc, địch huy động hàng trăm binh lính và tuần phu các nơi đến bao vây dày đặc. Trước tình thế ấy, các đồng chí lãnh đạo quyết định mở một đường máu để thoát khỏi sự vây bủa của quân thù. Một số đồng chí từ trong chùa nói vọng ra để kêu gọi binh lính và tuần phiên không được làm tay sai cho đế quốc để hại nước hại dân, rồi tất cả đều dương vũ khí chạy thẳng ra ngoài. Bọn lính và tuần phiên hoảng sợ, vội tránh rạt ra. Cán bộ và tự vệ từ chùa Phong Cốc chạy ra phía cây Trôi làng Trung Lập, rồi lại rẽ xuống làng Ngọc Trung. Nhưng kịp phát hiện ra mấy chục lính và tuần phiên đang phục kích ở đấy cho nên tất cả đều quyết định rút nhanh xuống làng Thuần Hậu và vừa chạy vừa hô anh em tự vệ của làng Thuần Hậu ra cứu viện. Lúc này, tiếng trống, tiếng mõ báo động khắp các làng rất náo động. Hàng trăm binh lính và tuần phiên từ Phong Cốc, Trung Lập, Ngọc Trung, Xá Lê, v.v... đổ dồn về làng Thuần Hậu để vây bắt cán bộ. Nhưng tại đây, hầu hết cán bộ và tự vệ từ làng Phong Cốc chạy đến đều được quần chúng cách mạng của làng Thuần Hậu che chở và bảo vệ cho nên đã thoát khỏi được sự vây bắt của địch. Trong số đó, chỉ có đồng chí Nguyễn Văn Hồng và Đỗ Viết Phượng vì chạy ra khỏi làng Thuần Hậu cho nên đã bị sa vào lưới của địch.
Thế là cuộc vây bắt lớn và tương đối qui mô đầu tiên của địch để vây bắt cán bộ cách mạng ở khu vực Xuân Minh đã bị thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng quần chúng nhân dân ở đây rất trung thành với Đảng và cách mạng.
Ngay sau đó, tất cả những đồng chí bị lộ diện đều thoát ly sang những cơ sở cách mạng khác để tiếp tục hoạt động.
Ngày 11 tháng 7-1941, sau cuộc vây bắt thất bại ở Phong Cốc và Thuần Hậu, bọn thống trị vô cùng điên cuồng và tức tối. Chúng đã tức tốc huy động mấy trăm binh lính và hàng ngàn tuần phu ở các nơi đổ dồn về Xuân Minh để tiến hành một cuộc khủng bố trắng một cách khốc liệt. Với âm mưu tiêu diệt một sào huyệt cách mạng, chúng đã không tiếc tay trong việc biến nơi đây thành một vành đai trắng và cuộc triệt hạ xóm làng đã diễn ra thật kinh khủng. ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung, chúng đã ra lệnh cho binh lính và tuần phu chặt phá hết tất cả các luỹ tre, cây cối, bờ rào và những nơi rậm rạp, làm cho làng xóm trở nên quang lang và trơ trụi. Tất cả các đường, chúng đều cho thiết lập các điếm canh và bốt gác để khống chế những người qua lại. Ban ngày, chúng tiến hành những cuộc lùng sục, bắt bớ, còn ban đêm thì thực hiện lệnh giới nghiêm. Một không khí khủng bố phát xít và tàn bạo bao trùm khắp Xuân Minh. Trong những ngày này chúng đã gây ra biết bao nhiêu là tội ác. Để trả thù đối với những gia đình có người hoạt động cách mạng, chúng đã trắng trợn sách nhiễu, cướp đoạt tài sản, thóc gạo, trâu, bò, lợn, gà,... một cách không thương tiếc, và thậm chí còn cho binh lính và phu phen ở lỳ hàng tuần, hàng tháng để bắt gia đình phải lo cung phụng và hầu hạ đủ đường. Cao hơn nữa là dỡ nhà, dỡ cửa của nhân dân và đóng cọc vào mồ mã, hay đập bài vị của cha mẹ, tổ tiên của các đồng chí hoạt động cách mạng, v.v...
Sau một đợt tàn phá, triệt hạ và cướp bóc thẳng tay ở khu vực Xuân Minh, địch đã nhanh chóng cho thiết lập một đồn lính quy mô tại làng Phong Cốc nhằm khống chế phong trào cách mạng của tổng Thử Cốc và 3 huyện Thọ Xuân Thiệu Hoá - Yên Định. Đồn được đặt ngay sát trục đường giao thông liên huyện. Đề đốc Nguyễn Văn Quảng con nuôi tên khâm xứ Xa ten, là một tên ác ôn có nhiều kinh nghiệm trong việc khủng bố cách mạng và đã từng có nhiều nợ máu trong việc tàn sát các chiến sĩ Xô Viết Nghệ Tĩnh thời kỳ 1930-1931 đã được điều về đây để chỉ huy trực tiếp.
Đồn Phong Cốc là một đồn lớn và khá quy mô. Đồn rất cao và có 3 tầng, đứng ở trên đó có thể quan sát được toàn tổng. ở mỗi tầng đều có lỗ chĩa súng ra như kiểu lô cốt. Xung quanh đều có giao thông hào và được rào kín bằng mấy lớp dây thép gai và chông chà bằng tre. Hai bên đồn là nhà ở của binh lính và các kho vũ khí, lương thực, thực phẩm. Dựa vào việc làm đồn, bọn đề Quảng, đội Thiệu , cai Thịnh đã cướp đoạt biết bao tài sản và của cải của nhân dân Xuân Minh1.
Trong những ngày đóng đồn ở đây, bọn chúng đã cho tăng cường thêm bộ máy tay sai ở địa phương (như tăng quyền hạn cho chức tuần chấp, khôi phục lại hội đồng đại hào mục, lập thêm chức đoàn xã và gia tăng đội hương binh, v.v...). Để khống chế lực lượng cách mạng, đồng thời khôi phục và phát triển các tập tục cũ như tế lễ, ma chay, đồng bóng, ăn uống, khao vọng, cờ bạc, rượu chè, v.v... để ru ngủ và đầu độc nhân dân. Ngoài ra, chúng còn tìm cách mua chuộc, lôi kéo một số phần tử thuộc tầng lớp trên làm mật thám chỉ điểm để rình bắt cán bộ cách mạng. Lúc này, bọn tay sai phản động ở các làng ngóc đầu dậy (như Hào Văn, Tuần Chuyện, Lý Dong, Hào Bồng, Hào Thác, Lý ốc, Lý Cán, Tuần Thừu, v.v...) được bọn thống trị tin dùng đã ra sức tìm cách chống phá cách mạng. Để thực hiện âm mưu tách các chiến sĩ cách mạng ra khỏi sự che chở và bảo vệ của nhân dân, chúng đã doạ nạt, đánh đập, và khống chế chặt chẽ những gia đình có người thoát ly, đồng thời cưỡng bức những người thân nhân như bố, mẹ, vợ, con đi khắp các nơi tìm gọi cán bộ ra đầu thú. Nhưng nói chung, tất cả những âm mưu của bọn chúng đều thất bại và không thể nào bóp chết được phong trào cách mạng ở đây.
Đứng trước sự đàn áp và khủng bố ác liệt của kẻ thù, các chiến sĩ cách mạng Xuân Minh vẫn bám sát cơ sở để duy trì tổ chức, duy trì phong trào và củng cố tinh thần của quần chúng. Lúc này, mặc dù một số đồng chí cán bộ của địa phương tiếp tục bị địch bắt, nhưng nhìn chung, lực lượng cách mạng vẫn còn tồn tại trong sự bảo vệ và che chở của quần chúng nhân dân. Giữa lúc kẻ thù đang tiến hành lùng sục và bắt bớ ngày càng ráo riết hơn, cho nên việc hoạt động rầm rộ công khai lúc này chỉ là sự tự sát và làm suy yếu phong trào. Vì vậy, ở trong tất cả các làng của Xuân Minh, các chiến sĩ cách mạng còn lại đều rất chú trọng đến những nguyên tắc hoạt động bí mật để giữ vững lực lượng, đồng thời tiếp tục bố trí cho những đồng chí bị lộ diện thoát ly khỏi địa phương để hoạt động trên những địa bàn mới, và trong thực tiễn, các đồng chí này cũng đã đóng góp một phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố phong trào của các địa phương.
Giữa tháng 8-1941, đồng chí Trịnh Ngọc Phước đã bí mật trở lại Xuân Minh để phát động việc tiếp tế, ủng hộ và đưa người tăng cường cho chiến khu Ngọc Trạo. Mặc dù trong điều kiện đang bị kẻ thù kìm kẹp và vây riết, nhưng quần chúng cách mạng ở đây vẫn tích cực ủng hộ tiếp tục cho chiến khu những thứ cần thiết như tiền bạc, quần áo, thuốc men, địa bàn, đèn pin, vũ khí, v.v... Lúc này, một số chiến sĩ cách mạng của Xuân Minh cũng đã có mặt tại chiến khu Ngọc Trạo (trong đó có cả chiến sĩ nữ như đồng chí Nguyễn Thị Mà) và những chiến sĩ còn lại thì đều ở trong tư thế sẵn sàng để chờ lệnh lên đường.
Đến đầu tháng 9-1941, lực lượng tự vệ của các địa phương được lệnh tập kết về rừng cây ắng (Đa Ngọc Yên Định), biên chế lại đội ngũ để chuẩn bị tăng cường cho chiến khu Ngọc Trạo. 25 cán bộ và chiến sĩ tự vệ của Xuân Minh cũng nhanh chóng có mặt tại Đa Ngọc1. Trên đường đến Đa Ngọc, tự vệ của các địa phương ở Thọ Xuân, Thiệu Hoá đã được lực lượng cách mạng Xuân Minh và ở làng Trung Lập bố trí giúp đỡ đưa đường một cách an toàn và chu đáo.
Trong khi gần 100 tự vệ ở Đa Ngọc còn đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết trước khi lên đường tăng cường cho chiến khu Ngọc Trạo thì bị địch phát hiện và đánh úp. Thế là ngay trong đêm 7-10-1941, cuộc chiến đấu giữa lực lượng tự vệ với binh lính địch đã diễn ra một cách quyết liệt tại Đa Ngọc. Mặc dù không cân sức về lực lượng và vũ khí, nhưng các chiến sĩ tự vệ đã anh dũng chiến đấu để chống trả lại sự tấn công bất ngờ của địch. Trong giờ phút mặt đối mặt với quân thù, đồng chí Nguyễn Đức Tẻo (Hạnh Phúc, Thọ Xuân) vẫn cương quyết chỉ huy đồng đội chiến đấu, và đã hy sinh anh dũng tại trận địa. Đồng chí Trịnh Văn Nhẫn (Ngọc Trung), bị thương vẫn tiếp tục chiến đấu. Do sự đánh trả quyết liệt của lực lượng tự vệ, cho nên sáng ngày 8-10-1941, bọn địch phải rút lui. Và ngay sau đó, hầu hết lực lượng tự vệ Đa Ngọc đã nhanh chóng lên đường đến chiến khu Ngọc Trạo, còn một số đồng chí bị thương, ốm yếu đã được đưa về các cơ sở cách mạng một cách an toàn.
Sau sự kiện Đa Ngọc thì địch lại phát hiện ra chiến khu Ngọc Trạo. Và rạng sáng ngày 19-10-1941, địch tập trung toàn bộ lực lượng tinh nhuệ nhất đến bao vây và tấn công chiến khu hòng tiêu diệt toàn bộ đội du kích Ngọc Trạo lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá. Sau mấy giờ chiến đấu quyết liệt, đội du kích Ngọc Trạo đã buộc địch phải rút lui khỏi chiến khu. Lúc này xét về mặt tương quan lực lượng, ban lãnh đạo chiến khu đã quyết định rút toàn bộ về làng Cẩm Bào (Vĩnh Lộc) rồi sau đó phân tán về các cơ sở để tiếp tục hoạt động xây dựng và củng cố phong trào cách mạng ở trong tỉnh.
Mặc dù đội du kích Ngọc Trạo ra đời và chỉ hoạt động được một thời gian ngắn nhưng đã gây được tiếng vang rất lớn trong toàn tỉnh. Chính đây là sự biểu hiện quyết tâm của Đảng bộ Thanh Hoá trong việc thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ VI và hưởng ứng tích cực hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, đồng thời đó là cuộc tập dượt lớn đầu tiên về sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc ở tỉnh nhà.
Trong số gần 100 đội viên du kích Ngọc Trạo lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá thì riêng Xuân Minh đã có mặt là 12 đồng chí1. Đó là sự đóng góp đáng kể của một địa phương cách mạng có truyền thống và rất kiên cường.
Từ cuối tháng 10-1941 trở đi, bọn địch lại tiếp tục tập trung lực lượng để khủng bố phong trào cách mạng Thanh Hoá. Có thể nói từ năm 1930 đến 1945 thì đây là cuộc khủng bố lớn và tàn khốc nhất của kẻ thù tại tỉnh ta.
Ở Xuân Minh, không khí khủng bố lại càng ráo riết và ác liệt hơn. Suốt ngày đêm, binh lính và bọn tay sai phản động lại rình rập để lùng bắt cán bộ cách mạng. Thời gian này, phần lớn cán bộ, đảng viên và tự vệ của Xuân Minh đều sa vào lưới địch và bị giam cầm ở các nhà tù đế quốc. Mặc dù bị tra tấn dã man, nhưng các đồng chí của Xuân Minh vẫn giữ vững phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng kiên cường và bất khuất, tuyệt đối không một ai tỏ ra nhụt chí và đầu hàng giặc. Trong nhà tù, các đồng chí vẫn hướng một lòng tin vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng và tích cực tham gia các cuộc đấu tranh phản đối sự hà khắc của chế độ lao tù đế quốc, đồng thời hăng hái tham gia học tập văn hoá và lý luận cách mạng. Tình thương yêu đoàn kết lẫn nhau trong lao tù càng làm cho các đồng chí giữ vững được ý chí chiến đấu.
Như vậy, cuộc khủng bố của địch ở Xuân Minh không phải chỉ xảy ra từ sau khi chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ mà đã thực sự diễn ra từ tháng 7-1941 và kéo dài cho đến tận tháng 11-1941. Trong thời gian này, lực lượng cách mạng và quần chúng nhân dân ở Xuân Minh đã phải trải qua một cuộc chiến đấu cực kỳ gay gắt. Biết bao sự đổ nát, hy sinh đã từng diễn ra trên đất này. Tuy sự khủng bố trắng của địch có gây nhiều tổn thất cho phong trào cách mạng ở Xuân Minh nói riêng và ở trong tỉnh nói chung, nhưng sự khủng bố đó vẫn không thể nào dập tắt được ngọn lửa cách mạng đang cháy rực trong lòng quần chúng. Mặc dù phong trào tạm lắng xuống và gặp rất nhiều khó khăn, nhưng lòng tin vào Đảng, vào cách mạng của quần chúng vẫn bền vững. Mâu thuẫn giữa đế quốc và tay sai với nhân dân càng sâu sắc thêm.
Chính giữa lúc kẻ địch còn đang lùng sục, vây ráp, bắt bớ, cướp phá và đánh đập tàn bạo thì quần chúng cách mạng ở đây vẫn tìm mọi cách để giúp đỡ, nuôi nấng, chở che và đưa đón cán bộ với tất cả sự trung thành và hy sinh cao cả nhất. ở thời điểm này, quần chúng Xuân Minh mà trước hết là lực lượng phụ nữ đã tỏ rõ bản lĩnh và năng lực của mình trong đấu tranh chống khủng bố và trong hoạt động nuôi dấu, bảo vệ các cán bộ cách mạng.
Lúc này, được sự che chở của quần chúng, những chiến sĩ cách mạng còn lại của Xuân Minh đã bám sát cơ sở và tìm cách liên hệ với nhau để hoạt động củng cố tổ chức, củng cố phong trào, đồng thời bí mật liên lạc với các cơ sở cách mạng khác để cùng thống nhất hành động.
Tháng 11-1941, sau khi trốn thoát sự vây bắt của kẻ thù, đồng chí Đỗ Đan Quế, một cán bộ chủ chốt đã thoát ly của Xuân Minh đã liên lạc được với một số cán bộ, Đảng viên còn lại của Thọ Xuân và Thiệu Hoá như các đồng chí Viêm Quý Ngãi, Hồ Sỹ Nhân, Hoàng Văn Ngữ, Hoàng Văn Nghị, Trần Kim Tế, v.v... và trong tháng này, tại làng Mao Xá (nay là thôn Toán Tỵ, xã Thiệu Toán, huyện Thiệu Hoá), các đồng chí đã tổ chức một cuộc hội nghị để bàn biện pháp chống khủng bố và củng cố phong trào, đồng thời phân công cán bộ đi các nơi để chắp nối tổ chức1. Sau cuộc hội nghị này, đồng chí Đỗ Đan Quế đã bí mật trở lại vùng Xuân Minh và tổng Thử Cốc để hoạt động.
Ngày 29-12-1941, với chủ trương của hội nghị (11-1941), nhóm cán bộ, đảng viên còn lại của Thọ Xuân Thiệu Hóa đã tổ chức treo cờ đỏ sao vàng và rải truyền đơn kêu gọi chống khủng bố (ở Vân Đồn, Nông Cống). Đó là một đòn cảnh cáo mới đối với địch, đồng thời là biểu hiện của sự quyết tâm cách mạng rất cao của cán bộ và quần chúng trong điều kiện tỉnh ta vừa trải qua một cuộc khủng bố lớn chưa từng thấy. Nhưng dù sao, việc làm ấy cũng đã dẫn đến sự bộc lộ lực lượng, để cho địch dễ dàng phát hiện và tiếp tục khủng bố. Thế là, đến tháng 2-1942, toàn bộ nhóm cán bộ, đảng viên vừa được tập hợp trên đều bị sa vào lưới của địch.
Tiếp sau đó, đến tháng 3-1942, một số cán bộ, đảng viên còn lại khác ở hai huyện Thọ Xuân Thiệu Hoá (như các đồng chí Lê Xuân Việt (tức Cớt), đồng chí Toại, Đỗ Huy Mễ và hai nữ đồng chí Huê, An (tức Kim Liên)) sau khi đã liên hệ được với một số cơ sở cách mạng lại tiếp tục nhóm họp tại làng Vân Lộ (nay là xã Xuân Khánh, Thọ Xuân) để bàn việc củng cố tổ chức và củng cố phong trào1. Các đồng chí này đã chủ trương in lại tờ báo Tự do cơ quan ngôn luận của Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hoá trước đó để làm vũ khí tuyên truyền đến tận cơ sở. Từ đó, phong trào tổ chức ở một số cơ sở cách mạng của hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá được hồi phục trở lại trong một chừng mực nhất định. Nhưng nói chung, mọi hoạt động lúc này đều rút lui hoàn toàn vào bí mật và còn gặp rất nhiều khó khăn, cho nên nhóm cán bộ đảng viên còn lại trên đây vẫn chưa đủ điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động sang các địa bàn khác ở trong tỉnh.
Ở Xuân Minh, mà trước hết là ở làng Thuần Hậu, Phong Cốc, Xá Lê, do số cán bộ và quần chúng cách mạng nòng cốt, trung kiên vẫn còn lại nhiều, cho nên việc củng cố tổ chức và phong trào có phần thuận lợi hơn. Lúc này, các chiến sĩ cách mạng còn lại đã mở một cuộc vận động quần chúng quyên góp tiền bạc, quà bánh, thuốc men, quần áo cho các đồng chí đang bị giam giữ ở nhà tù Thanh Hoá, và kêu gọi tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn hoạn nạn, đặc biệt là đối với những gia đình có người bị tù đày và bị địch triệt hạ, cướp phá. ở làng Thuần Hậu, các đồng chí cán bộ còn tổ chức vận động quần chúng làm đơn kiện Phó lý Y về tội nhũng nhiễu và ăn hối lộ của nhân dân. Kết quả đã làm cho Phó lý Y bị cách chức. Việc này cũng gây ảnh hưởng tốt trong quần chúng. Nói chung, tại các làng, quần chúng vẫn rất trung thành với Đảng và cách mạng, nhưng phong trào vẫn chưa sâu, chưa mạnh vì còn thiếu một đường lối lãnh đạo thống nhất và sát đúng với tình hình thực tế sau khủng bố. Do đó, vấn đề liên lạc với Đảng cấp trên vẫn là một đòi hỏi vô cùng bức thiết.
Vào lúc này, một số chiến sĩ cách mạng như các đồng chí Lê Tất Đắc, Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Tiến Trình, Hoàng Xung Phong, Nguyễn Văn Phác trốn thoát khỏi nhà tù Ban Mê Thuột và trại tập trung Ly Hy đã trở về Thanh Hoá để hoạt động. Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu tình hình tổ chức và phong trào cơ sở thì đến tháng 5-1942, các đồng chí đã thành lập được một ban liên lạc tại Nga Sơn nhằm chắp nối các tổ chức cơ sở Đảng ở các địa phương để tiến tới củng cố Đảng bộ tỉnh nhà. Đồng chí Trịnh Ngọc Điệt và Hoàng Tiến Trình được phân công liên lạc với các cơ sở cách mạng cũ ở vùng Thiệu Hóa, Thọ Xuân và Yên Định. Từ đó trở đi, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt và một số đồng chí khác đã lần lượt về Xuân Minh hoạt động. Tại Xuân Minh, được quần chúng che chở và bảo vệ, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đã nhanh chóng liên hệ được với những cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng trung kiên còn lại của địa phương và thông qua đó để mở rộng sự liên lạc ra các vùng khác. Gia đình đồng chí Đỗ Huy Kính (tức Lý Cung), Đỗ Huy Khuê và làng Thuần Hậu nói chung đã trở thành một địa điểm liên lạc chủ yếu để chắp nối tổ chức và củng cố phong trào của tổng Thử Cốc lúc đó.
Đến tháng 7-1942, tại làng Thượng (Nga Sơn), ban liên lạc đã triệu tập một cuộc hội nghị đại biểu các cơ sở cách mạng toàn tỉnh để thành lập một tổ chức quần chúng cách mạng lấy tên là Thanh Hoá ái quốc hội với mục đích tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào mặt trận thống nhất chống Pháp Nhật. Hội nghị bầu ra Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời gồm 3 đồng chí do đồng chí Lê Tất Đắc làm Bí thư, và quyết định xuất bản tờ báo Đuổi giặc nước làm cơ quan ngôn luận của Đảng bộ. Đây là một sự kiện quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố, thúc đẩy sự phát triển tổ chức và phong trào cách mạng tỉnh Thanh Hoá.
Sau hội nghị Nga Sơn (7-1942), đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Tiến Trình vẫn tiếp tục được phân công theo dõi chỉ đạo phong trào các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân và Yên Định.
Tháng 10-1942, tại làng Thuần Hậu (Xuân Minh) thông qua đồng chí Đỗ Huy Mễ một cán bộ nòng cốt còn lại ở vùng này, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đã liên lạc được với nhóm cán bộ, đảng viên của hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá1 để thống nhất đưa vào guồng máy lãnh đạo chung của Tỉnh Đảng bộ lâm thời. Điều đó càng có thêm điều kiện thuận lợi để củng cố và đẩy mạnh phong trào những huyện này tiến lên nhanh chóng hơn. Riêng Xuân Minh mà trước hết là ở làng Thuần Hậu, do được sự bắt mối và chỉ đạo trực tiếp của cán bộ cấp trên, cho nên những chiến sĩ cách mạng còn lại đã bắt đầu hoạt động một cách tích cực, khẩn trương và sát đúng với tinh thần đường lối đề ra của Đảng bộ. Một số đồng chí trung kiên và hăng hái đã được đào tạo thành những cán bộ liên lạc quan trọng để thực thi nhiệm vụ đưa đón cán bộ và chuyển tài liệu, thư từ bí mật đến các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh.
Cuối tháng 10-1942, đồng chí Đỗ Huy Kính và Đỗ Hữu Vi được phân công xuống Lò Chum (Thị xã) đón đồng chí Tố Hữu một cán bộ nòng cốt của Đảng bộ Tỉnh về làng Thuần Hậu (Xuân Minh) để hoạt động2.
Lúc này, mặc dù ở đồn Phong Cốc vẫn còn cắm chốt một đội lính và mạng lưới mật thám tay sai còn rất nhiều, nhưng việc củng cố tổ chức, củng cố phong trào tại địa phương vẫn được xúc tiến một cách khẩn trương.
Tháng 11-1942, tại lò gạch ở giữa cánh đồng làng Thuần Hậu, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt thay mặt cấp trên triệu tập một cuộc họp bao gồm các đồng chí cán bộ, đảng viên chủ chốt còn lại của địa phương để phổ biến chủ trương thành lập hội ái quốc ở các làng trong tổng nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp quần chúng vào mặt trận thống nhất chống Pháp Nhật. Tại hội nghị này, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt còn nhắc nhở các đồng chí cán bộ của địa phương phải luôn luôn cảnh giác với những âm mưu chia rẽ, lôi kéo của bọn Đại Việt tay sai cho phát xít Nhật.
Sau cuộc họp được ít ngày thì làng Thuần hậu là làng đầu tiên của tổng Thử Cốc đã thành lập được hội ái quốc (với tổng số 16 hội viên) trên cơ sở chọn lựa các hội viên phản đế cũ còn lại để kết nạp.
Nói chung, đến cuối năm 1942, phong trào cách mạng ở khu vực Xuân Minh đã có nhiều biến chuyển, đặc biệt về mặt tổ chức đang trên đà được củng cố vững chắc hơn. Tuy vậy, phong trào lúc này vẫn chưa mạnh mẽ và sôi nổi. Các cuộc đấu tranh của quần chúng còn diễn ra một cách rời rạc, lẻ tẻ trong phạm vi của làng như kiện tụng, kêu la, trốn phu, trốn lính, v.v...
Đầu năm 1943, Đảng bộ Thanh Hoá chính thức bắt được liên lạc với Trung ương Đảng và được tiếp thu tinh thần nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VIII. Từ đây, phong trào Việt Minh đuổi giặc cứu nước ở tỉnh ta lại được dấy lên một cách nhanh chóng và đều khắp.
Tháng 3-1943, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đã trở lại Xuân Minh và triệu tập một cuộc hội nghị cán bộ tổng Thử Cốc tại chùa Yên Thọ1 để phổ biến tinh thần nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VIII và phổ biến chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh, đồng thời kêu gọi đẩy mạnh phong trào đuổi giặc cứu nước tại địa phương. Cuộc họp vừa kết thúc thì địch đánh hơi phát hiện và tung lực lượng đến vây bắt được một số đồng chí (như Đỗ Huy Khuê, Đỗ Huy Kính, Đỗ Huy Mễ, Đỗ Thị Dốt, Đỗ Văn Đam, Trịnh Thị Đức). Mặc dù một số đồng chí bị địch bắt, nhưng những đồng chí còn lại vẫn xúc tiến việc thành lập các hội cứu quốc của mặt trận Việt Minh. Và làng Thuần Hậu là làng đầu tiên trong tổng đã thành lập được tổ chức mặt trận Việt Minh.
Tiếp sau đó, vào cuối năm 1943, các chiến sĩ cách mạng còn lại của làng Phong Cốc lại bắt được liên lạc với đồng chí Ngô Ngọc Vũ (Thiệu Hoá) và nhận được nhiều tài liệu của cấp trên (như điều lệ, cương lĩnh của mặt trận Việt Minh...). Do đó đến đầu năm 1944, làng Phong Cốc là làng thứ hai của Xuân Minh đã thành lập được tổ chức mặt trận Việt Minh. Tháng 3-1944, số hội viên tham gia trong mặt trận Việt Minh của làng Phong Cốc đã lên đến 30 người. ở các làng Xá Lê, Ngọc Trung, Yên Thọ, Phú Tình và Thiên Lộc mặc dù chưa thành lập được tổ chức này, nhưng những chiến sĩ cách mạng còn lại vẫn bí mật vận động quần chúng đấu tranh chống mê tín dị đoan, chống cường hào nhũng nhiễu, chống bán bông, bán lạc cho giặc Nhật, và kiện lý trưởng, đánh cường hào, v.v...
Tháng 4-1944, hai đồng chí Nguyễn Văn Doăng (Phong Cốc) và Đỗ Huy Phiên (Thuần Hậu) được cử đi dự lớp huấn luyện quân sự, chính trị đầu tiên do tỉnh Đảng bộ tổ chức tại làng Cựu Thôn (Thiệu Toán, Thiệu Hoá). Sau đó, cả hai làng Phong Cốc và Thuần Hậu đã xây dựng được lực lượng tự vệ và thường xuyên luyện tập về ban đêm.
Thời gian này, một số chiến sĩ cách mạng ở các làng của Xuân Minh mãn hạn tù đã trở về địa phương để tiếp tục hoạt động, làm cho lực lượng cốt cán của phong trào lại được tăng cường hơn.
Một đêm tháng 5-1944, Ban cán sự Việt Minh của hai làng Phong Cốc và Thuần Hậu đã tổ chức một cuộc mít tinh tại cánh đồng Cù Quỷnh với 50 người tham dự để nghe đồng chí Ngô Ngọc Vũ giải thích về đường lối, chủ trương của mặt trận Việt Minh. Tại đây, đồng chí Ngô Ngọc Vũ đã kêu gọi quần chúng hưởng ứng tích cực vào các phong trào đuổi giặc cứu nước đang được đẩy lên mạnh mẽ ở tỉnh nhà. Sau cuộc mít tinh, một số đồng chí được phân công rải truyền đơn ở con đường liên huyện: Thiệu Hoá - Cầu Vàng Yên Định và ở các nhà của bọn lý hương để kêu gọi chống bắt phu, bắt lính, chống thu thóc, thu bông, chống bán bông, bán lạc cho giặc Nhật, v.v... Kết quả đã kích thích và cổ vũ mạnh mẽ được tinh thần của quần chúng.
Ngày 24-6-1944, hội nghị đại biểu đảng bộ tỉnh họp tại làng Vĩ Liệt (Hà Trung) đã đề chủ trương gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Đến ngày 15-9-1944, Tỉnh Bộ Việt Minh lại ra tiếp chỉ thị kíp sửa soạn khởi nghĩa nhằm thúc đẩy việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang để chuẩn bị đón thời cơ giành chính quyền về tay cách mạng.
Chủ trương của hội nghị Đảng bộ tỉnh và chỉ thị của Tỉnh bộ Việt Minh nhanh chóng được truyền đến Xuân Minh và tổng Thử Cốc, làm cho phong trào ở đây biến chuyển rất mạnh mẽ và sôi nổi. Cuối năm 1944, phong trào chống thu thóc, thu bông, chống bắt phu, bắt lính, chống đánh đập khủng bố, v.v... không phải chỉ diễn ra ở hai làng Phong Cốc và Thuần Hậu mà còn lan rộng ra các làng Ngọc Trung, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ và Thiên Lộc.
Cũng thời gian trên, bọn Đại Việt tay sai cho Nhật đã về các làng ở Xuân Minh để hoạt động ráo riết nhằm chia rẽ, mua chuộc và lôi kéo quần chúng đi chệch quĩ đạo cách mạng1. Nhưng cuối cùng, tất cả mọi cố gắng và âm mưu của chúng đều thất bại. Cán bộ, đảng viên, ở đây đã đi sâu đi sát quần chúng để giải thích và vạch mặt âm mưu xảo quyệt của bọn chúng. Mặc dù bọn Đại Việt và lý hương nhiều lần đánh trống, gõ mõ mời làng ra để nói chuyện nhưng vẫn không được một ai hưởng ứng. Sau đó, chúng tìm cách len lỏi vào từng gia đình để mua chuộc, dụ dỗ nhưng vẫn không thành. Việc bọn Đại Việt tay sai cho Nhật đến Xuân Minh mà không có chỗ dừng chân để hoạt động là một biểu hiện chứng tỏ trình độ giác ngộ cách mạng và lòng tin vào Đảng của quần chúng ở đây rất cao. Chính đó là một thành trì cách mạng kiên cố để chiến thắng mọi âm mưu nham hiểm của kẻ thù.
Đầu năm 1945, đại chiến thế giới lần thứ hai đã biến chuyển sang một cục diện mới, đẩy bọn phát xít Đức ý Nhật đến nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Đó là một điều kiện thuận lợi thúc đẩy phong trào cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ và quyết liệt hơn.
Tại Thanh Hoá, phong trào chuẩn bị khởi nghĩa đã được phát động sâu rộng khắp nơi, mặt trận Việt Minh ngày càng được mở rộng để tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên chống Pháp Nhật.
Ở Xuân Minh, đến đầu năm 1945 thì ở tất cả các làng đều đã tổ chức được mặt trận Việt Minh. Các đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc lần lượt ra đời làm cho phong trào cách mạng ở địa phương càng thêm sôi động.
Giữa lúc phong trào gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa ở Xuân Minh nói riêng và trong tỉnh nói chung đang trên đà phát triển thì một nạn đói khủng khiếp chưa từng thấy đã diễn ra làm cho hàng vạn người trong tỉnh bị chết đói. Đó là hậu quả nghiêm trọng của những chính sách vơ vét, cướp đoạt của bọn Phát xít Nhật. Đứng trước tình hình đó, Tỉnh Đảng bộ đã kịp thời ra chỉ thị đòi ăn (5-3-1945) để hướng dẫn những biện pháp và chủ trương cụ thể để giải quyết nạn đói cho nhân dân.
Ở Xuân Minh, nạn đói cũng gây ra biết bao khó khăn cho mọi gia đình. Nhưng với tinh thần tương thân tương ái và đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, cho nên tất cả cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân Xuân Minh đã vượt qua được nạn đói này. Trong cả 7 làng, không có một người nào bị chết đói. Đó là một điển hình đặc biệt trong hoàn cảnh của tỉnh ta lúc đó. Hơn nữa Xuân Minh là một vùng đất nghèo, mất mùa liên tục và đã từng trải qua những cuộc khủng bố triệt hạ lớn của địch, cho nên việc đoàn kết giúp đỡ nhau để vượt qua nạn đói này cũng là một thắng lợi đáng kể của lực lượng cách mạng Xuân Minh. Nhận được chỉ thị đòi ăn của Tỉnh Đảng bộ, các làng của Xuân Minh còn tổ chức vận động vay lúa những nhà giàu để giải quyết kịp thời cho nhiều gia đình bị mất bữa. Tác dụng của phong trào giải quyết nạn đói này đã làm cho quần chúng càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và hăng hái quyết tâm tham gia mọi hành động cách mạng.
Đêm ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Không đầy một ngày sau, thực dân Pháp chính thức đầu hàng Nhật. Đây là một sự kiện thôi thúc Đảng bộ và quần chúng nhân dân tỉnh ta nhanh chóng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay cách mạng.
Tháng 4-1945, bản chỉ thị lịch sử Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Ban thường vụ Trung ương Đảng (12-3-1945) đã truyền đến Thanh Hoá. Quán triệt và tiếp thu bản chỉ thị đó, Đảng bộ tỉnh đã kịp thời mở cuộc hội nghị ở làng Vĩ Liệt (Hà Trung) để quyết định những chủ trương và biện pháp cụ thể đối với phong trào đuổi Nhật cứu nước. Hội nghị chủ trương mở rộng cơ sở cách mạng, phát triển các đơn vị tự vệ chiến đấu, xây dựng các đội tuyên truyền xung phong lập căn cứ chống Nhật, vũ trang khởi nghĩa ở những nơi có điều kiện để thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân, v.v...
Lúc này khẩu hiệu cách mạng đánh đuổi phát xít Nhật Pháp trước đây được thay bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật.
Tiếp sau hội nghị Vĩ Liệt, Tỉnh bộ Việt Minh lại ra tiếp chỉ thị sắm sửa vũ khí đuổi thù chung để thúc đẩy nhanh chóng việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Dưới ánh sáng của các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, phong trào chống Nhật cứu nước ở tỉnh ta phát triển mạnh mẽ thành một cao trào vô cùng rộng lớn và đều khắp.
Ở Xuân Minh, từ tháng 4-1945 trở đi, phong trào cũng phát triển một cách rầm rộ. Thời gian này, hầu hết các chiến sĩ cách mạng Xuân Minh từ các nhà tù đế quốc đã lần lượt trở về địa phương để tiếp tục tham gia hoạt động. Do đó mà lực lượng lãnh đạo cốt cán của các làng được tăng cường một cách kịp thời, làm cho tổ chức và phong trào càng có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng và vững mạnh hơn.
Lúc này, tại địa phương, các cuộc họp, mít tinh, rải truyền đơn, dán áp phích kêu gọi quần chúng hưởng ứng mặt trận Việt Minh đã diễn ra liên tiếp và rất sôi nổi. Lực lượng tự vệ cứu quốc ở các làng đã chuyển thành tự vệ chiến đấu và con số ngày càng được bổ sung nhiều hơn. Phong trào tập võ dân tộc và huấn luyện quân sự diễn ra công khai và rầm rộ. Việc canh gác, tuần tra bảo vệ cán bộ và cơ sở cách mạng được bố trí cẩn thận chu đáo. Trước khí thế lớn mạnh của lực lượng và phong trào cách mạng, tập đoàn tay sai ở địa phương hoàn toàn hoang mang, giao động và không hề chống đối lại. Những tên ngoan cố đầu sỏ bị cô lập và cảnh cáo thường xuyên. ở làng Phong Cốc, Thuần Hậu, bộ máy chính quyền tay sai chỉ còn là hình thức, và thực chất, lực lượng cách mạng đã gần như làm chủ được tình hình tại địa phương.
Tháng 6-1945, tổng uỷ Việt Minh Thử Cốc đã tổ chức một cuộc diễn tập thí điểm lớn của lực lượng tự vệ chiến đấu tại làng Phong Cốc một cách công khai giữa ban ngày để rút kinh nghiệm cho các làng, đã làm cho không khí chiến đấu càng thêm sôi động.
Đến tháng 7-1945, lực lượng cách mạng của các làng ở Xuân Minh đã liên tiếp tham dự nhiều cuộc mít tinh tuyên truyền xung phong do huyện, tổng tổ chức ở các địa điểm chợ Đu, chợ Cuội, chợ Thạc, v.v... Trong các cuộc mít tinh này, lực lượng tự vệ đã hoàn thành xuất sắc việc bảo vệ cán bộ và quần chúng.
Việc rèn sắm vũ khí, quyên góp tiền bạc, thóc gạo để ủng hộ quĩ khởi nghĩa ở các làng đã trở thành một phong trào quần chúng rất sôi nổi và thu hút được hầu hết tất cả mọi người tham gia. ở Thuần Hậu, có người ủng hộ đến 20 đồng bạc Đông Dương (như bà Lý Thị Sói) và 10 đồng bạc Đông Dương (như bà Trần Thị Môn).
Có thể nói, cho đến những ngày cuối tháng 7 và đầu tháng 8-1948, phong trào chuẩn bị khởi nghĩa ở khu vực Xuân Minh đã đến độ chín mùi. Lực lượng cách mạng ở các làng đã áp đảo hoàn toàn tập đoàn lý hương tay sai và cương quyết không cho chúng thu thuế, thu bông, thu lạc... cho giặc Nhật. Sự đi lại của lực lượng tự vệ và cán bộ cách mạng từ làng này đến làng khác đã trở thành công khai như đi lại trong một vùng tự do. Binh lính địch dưới phủ huyện thời gian này đã không dám bén mảng đến địa phận của các làng ở Xuân Minh nói riêng và ở tổng Thử Cốc nói chung. ở từng làng, Ban cán sự Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc đều mở hội nghị bàn định kế hoạch cụ thể cho việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Lúc này, trống mõ và các dụng cụ báo động khác hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của lực lượng cách mạng. Truyền đơn, áp phích, băng cờ, biểu ngữ đã được chuẩn bị chu đáo. Tất cả mọi lực lượng đều đã trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh để hành động.
Trước sự biến chuyển mau lẹ của tình hình, ngày 14-8-1945 Tỉnh uỷ mở hội nghị tại làng Mao Xá (Thiệu Toán, Thiệu Hoá) để bàn kế hoạch xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Giữa lúc cuộc họp đang tiến hành thì ngày 15-8-1945, báo Đông Pháp đăng tin phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và đồng minh không điều kiện. Vận dụng tinh thần chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Trung ương Đảng, hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền.
Tinh thần của hội nghị Mao Xá nhanh chóng được truyền đến tổng Thử Cốc và các làng của Xuân Minh.
Ngày 16-8-1945, ở tất cả các làng ở đây đều đã thành lập được ban khởi nghĩa và tuyên truyền sâu rộng việc giành chính quyền trong nhân dân.
Ngày 18-8-1945, một cuộc tuần hành thị uy lớn của tổng Thử Cốc đã được tổ chức. Hàng ngàn tự vệ và quần chúng cách mạng của toàn tổng mang theo đầy đủ các loại băng cờ biểu ngữ và vũ khí (như dao, kiếm, mác, gậy tày và một số súng) kéo về tập trung tại chợ Mới (Trung Lập). Sau khi chấn chỉnh lại đội ngũ, đoàn tuần hành đã lần lượt đi qua các làng trong tổng và vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu cách mạng.
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
- Chính quyền về tay nhân dân!
- Ủng hộ Việt Minh!
- Đả đảo bọn Việt gian phản động! v.v...
Đến làng nào, đoàn tuần hành cũng ra lệnh cho bọn lý hương không được ức hiếp quần chúng và phải hoàn lại số thuế đã thu cho mọi người. Có thể nói chưa bao giờ không khí cách mạng ở làng, ở tổng lại náo nhiệt và sôi động như lúc này.
Mặc dù đây chưa phải là cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền chính thức, nhưng cuộc tuần hành thị uy này đã có tác dụng làm cho bộ máy chính quyền tay sai tại địa phương hoàn toàn bị tê liệt. Quần chúng nhân dân vô cùng hào hứng, phấn khởi và thấy rõ giờ phút tất thắng của cách mạng đã đến rồi.
Sáng 19-8-1945, nhận được lệnh khởi nghĩa, tất cả các làng của Xuân Minh đều nhất loạt nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của ban khởi nghĩa, lực lượng tự vệ đã tiến hành nhanh chóng việc tịch thu các loại bằng triện, giấy tờ, sổ sách của bọn hào lý để thực hiện nhiệm vụ giải tán và xoá bỏ chính quyền cũ của thực dân phong kiến. Ngay sau đó, toàn bộ lực lượng tự vệ và quần chúng nhân dân đã nô nức kéo về sân đình của làng mình để tham dự cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi của cách mạng. Cờ đỏ sao vàng và các loại băng, khẩu hiệu được dương cao và dăng đầy từ sân đình đến tận đường làng, ngõ xóm, làm sáng rực cả đất trời nơi đây. Tại cuộc mít tinh ở từng làng, chính quyền dân chủ nhân dân là uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời vừa được thành lập đã ra mắt chính thức trong tiếng hoan hô vang dậy của quần chúng1.
Đến trưa ngày 19-8, sau khi cuộc khởi nghĩa ở các làng Xuân Minh nói riêng và trong tổng nói chung đã kết thúc một cách thắng lợi và không đổ máu, Uỷ ban khởi nghĩa tổng Thử Cốc đã cấp tốc họp tại nhà đồng chí Đỗ Văn Duyến (làng Phong Cốc) để bàn biện pháp phát huy thành quả cách mạng vừa giành được để đưa phong trào quần chúng tiếp tục tiến lên toàn diện và mạnh mẽ hơn. Sau đó, hội nghị đã bầu ra một UBND cách mạng lâm thời tổng, do đồng chí Đỗ Huy Trinh làm Chủ tịch. Hội nghị còn bầu các đồng chí Đỗ Văn Duyến làm Chủ nhiệm Việt Minh tổng, Nguyễn Xuân Oanh làm Bí thư thanh niên tổng, Đỗ Thị Hạm làm Bí thư phụ nữ tổng.
Chiều ngày 19-8, hai đội tự vệ cảm tử của làng Phong Cốc và làng Thuần Hậu được lệnh lên đường chi viện cho cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Thị xã. Và tại đây, trong ngày ra mắt của UBND cách mạng lâm thời tỉnh (23-9-1945) một số chiến sĩ tự vệ Xuân Minh đã tự nguyện tham gia vào lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh để làm nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng.
Sáng ngày 20-8-1945, lực lượng tự vệ Xuân Minh và của các làng trong tổng đã tập trung về Long Linh để tham dự cuộc tuần hành vũ trang biểu dương lực lượng do UBND lâm thời tổng tổ chức. Đoàn tuần hành vũ trang đã đi qua tất cả các làng để trừng trị và trấn áp bọn phản động tay sai có nhiều nợ máu với nhân dân. Đi đến làng nào, đoàn cũng được nhân dân hưởng ứng và hoan hô nhiệt liệt. Bọn phản động đầu sỏ và nguy hiểm như Hào Văn (Phong Cốc), Hào Liên (Thuần Hậu), Tuần Chấp (Xá Lê), Lý Nho (Trung Lập), Cựu Điểm (Phong Lai), Lý Toà (Long Linh), v.v... đã bị cảnh cáo nghiêm khắc và đều cúi đầu nhận tội trước nhân dân.
Thế là bắt đầu từ đây, với sự chấm dứt của chế độ thực dân phong kiến, nhân dân Xuân Minh đã thực sự bước vào cuộc đời mới cuộc đời được làm chủ vận mệnh của mình để thực hiện Độc lập Tự do và Hạnh phúc.
Ngày 2-9-1945, cùng với nhan dân cả Tỉnh và cả nước, nhân dân Xuân Minh đã chăm chú lắng nghe Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sự kiện đó đã đánh dấu một bước ngoặt lớn lao trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. Nhưng đây cũng chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh, nhân dân Xuân Minh đã đoàn kết chặt chẽ cùng nhân dân cả nước tiếp tục công cuộc xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới đầy khó khăn gian khổ nhưng vô cùng vĩ đại.
Như vậy, sau 15 năm đấu tranh dưới cờ Đảng quang vinh (1930-1945) vượt qua bao gian khổ hy sinh, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh cùng cả nước đã đập tan gông xiềng nô lệ để chính thức bước sang một kỷ nguyên mới kỷ nguyên Độc lập Tự do và chủ nghĩa xã hội. Mười lăm năm ấy, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã tự tay viết lên những trang sử vô cùng vẻ vang, oanh liệt và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân tộc.
Từ thực tiễn của 15 năm, Xuân Minh đã thực sự trở thành một mảnh đất cách mạng kiên cường, một chỗ đứng chân tin cậy của Đảng bộ Thanh Hoá trong những ngày hoạt động bí mật.
Là một nơi có cơ sở Đảng sớm, có các tổ chức quần chúng của Đảng vững mạnh, có phong trào đấu tranh rất tiêu biểu và liên tục, cho nên trong 15 năm hoạt động, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh đã đóng góp một phần tích cực cho quá trình thành lập củng cố, khôi phục và phát triển của Đảng bộ tỉnh nhà (đặc biệt giai đoạn từ 1930-1935), đồng thời góp phần vào việc liên lạc, qui tụ, thống nhất các cơ sở Đảng và lực lượng cách mạng toàn tỉnh trước khi Thanh Hoá bước sang thời kỳ cao trào phản đế cứu quốc (1940-1941), v.v... Trong khi tiến hành vận động và thúc đầy phong trào cách mạng tại địa phương, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh còn biết phối hợp và chi viện với các địa phương khác nhằm đưa phong trào tiến lên ngày càng mạnh mẽ hơn. Tại đây, nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng bộ tỉnh và của các huyện vẫn thường xuyên qua lại, cắm chốt để hoạt động và nhiều cuộc họp lịch sử quan trọng của tỉnh đã được tổ chức đều được bảo vệ một cách an toàn và thắng lợi.
Chính kẻ thù vẫn gọi các làng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc nói chung là lò lửa cách mạng, là sào huyệt cộng sản, là trung tâm của sự chống đối và lật đổ chính phủ, v.v... cho nên, chúng phải nhiều phen đau đầu nhức óc và đã tập trung lực lượng đến đây để đối phó liên tục. Cũng bởi vì thế mà đến năm 1941, nhằm khống chế và dập tắt phong trào cách mạng ở đây, chúng đã điều một bộ phận binh lính tinh nhuệ cùng những tên tay sai đầu sỏ cáo già nhất đến đóng đồn tại làng Phong Cốc để tiến hành một cuộc khủng bố trắng chưa từng thấy.
Trong 15 năm, mặc dù trải qua nhiều lần bị khủng bố, nhưng phong trào cách mạng ở đây vẫn không bao giờ bị tắt ngấm và gián đoạn. Cứ sau mỗi lần khủng bố, dù dữ đội đến đâu, phong trào của địa phương vẫn tự hồi phục và phát triển nhanh chóng. Sự tàn bạo của kẻ thù đối với một nơi như Xuân Minh thật điển hình, nhưng rút cuộc chỉ làm cho ngọn lửa cách mạng ở trong lòng quần chúng càng cháy rực thêm. Trong vòng kìm kẹp và vây bủa của quân thù, nhân dân Xuân Minh vẫn vượt qua mọi gian khổ hy sinh để đưa đón, chở che và tiếp tế cho cán bộ cách mạng. Dù máu chảy đầu rơi, dù tù đầy tra tấn, dù bị triệt hạ nhà cửa và bị cướp đoạt tài sản, nhưng tất cả đều không hề khiếp sợ và vẫn giữ một lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng. Đó là biểu hiện ngời sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Xuân Minh. Ngay cả trong những giờ phúc sóng gió và đen tối nhất thì ở mảnh đất này cũng không hề có một cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng nào chịu khuất phục và đầu hàng địch.
Như vậy, trong cả quá trình đấu tranh cách mạng (1930-1945), cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phải gánh chịu biết bao gian khổ, hy sinh để đổi lấy những chiến thắng huy hoàng cho sự nghiệp vì Độc lập Tự do của Tổ quốc. Trong 15 năm ấy, 105 chiến sĩ cách mạng Xuân Minh đã bị đế quốc tuyên án hơn 500 năm tù, và thực tế đã bị cầm tù là hơn 300 năm. Trong số 7 làng thì có 3 làng bị địch triệt hạ nặng nề nhất, đó là làng Phong Cốc, Xá Lê và Thuần Hậu. Biết bao nhà cửa, trâu bò và tài sản của nhân dân đã bị địch triệt phá và tước đoạt. Những cảnh gia đình tan tác và ly tán đã diễn ra thường xuyên trên đất này.
Trong các nhà tù đế quốc, mặc dù bị nhiều cực hình tra tấn và hành hạ, nhưng các chiến sĩ cách mạng Xuân Minh vẫn tuyệt đối trung thành với Đảng và giữ vững được phẩm chất cách mạng, đã biến nhà tù thành trường rèn luyện đấu tranh, học tập, bồi dưỡng kinh nghiệm công tác, chính trị và văn hoá. Cho nên khi ra tù, tất cả các đồng chí đều trở thành những cán bộ ưu tú và nòng cốt tham gia tích cực các phong trào.
Từ trong 15 năm, cơ sở cách mạng Xuân Minh đã đào tạo và rèn luyện được một đội ngũ cán bộ, Đảng viên trung thành, có năng lực và giàu ý chí chiến đấu. Nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ chủ chốt của tỉnh, huyện và tổng.
Từ trong 15 năm, cơ sở cách mạng Xuân Minh cũng để lại được nhiều bài học kinh nghiệm quí báu về công tác xây dựng Đảng và xây dựng các tổ chức quần chúng, về phương pháp đấu tranh, kinh nghiệm về sự kết hợp giữa đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, giữa hợp pháp và không hợp pháp, giữa hình thức thấp đến hình thức cao, hay kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang và sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, v.v... Nhưng chung qui lại thì thấy rằng toàn bộ phong trào cách mạng ở Xuân Minh từ 1930-1945 đã phản ánh được một cách sinh động về sự hình thành và phát triển của cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng. Thông qua đấu tranh cách mạng, cơ sở Đảng ở đây đã đào luyện được nhiều nhân tố tích cực để phát triển Đảng. Quán triệt đúng đắn đường lối của Đảng, cơ sở Đảng Xuân Minh đã tập hợp xung quanh mình một đội ngũ cách mạng hùng hậu và vững chắc để chuẩn bị cho những bước nhảy vọt quyết định. Các đồng chí Đảng viên và cán bộ cách mạng ở đây đã thường xuyên đi sâu, đi sát quần chúng để từng bước giác ngộ và đưa quần chúng tập dượt đấu tranh dưới những hình thức từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ phong trào của một làng đến phong trào của một tổng, v.v... Nhờ đó mà lực lượng chính trị và trận địa đấu tranh của quần chúng ở địa phương càng được mở rộng, củng cố không ngừng cùng với sự phát triển của cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng. Thực tiễn của quá trình vận động cách mạng ở Xuân Minh đã chứng minh hùng hồn về sự cần thiết và vị trí quan trọng đặc biệt của việc phát triển Đảng và xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng. Vì chú trọng vấn đề này, cho nên giai đoạn 1930-1935 và đặc biệt là từ 1936-1939, 1939-1945, phong trào cách mạng của Xuân Minh đã phát triển một cách liên tục, vững chắc và đều khắp. Nhưng thực tiễn ở đây cũng cho thấy, nếu lúc nào đó, vấn đề này bị xem nhẹ, hoặc không chú trọng đúng mức thì sẽ dẫn đến sự giảm sút và suy yếu của phong trào. Trong thời kỳ vận động mặt trận phản đế (ở những tháng giữa năm 1941), khi phần lớn cán bộ, Đảng viên của Xuân Minh rút sang lực lượng tự vệ và hoạt động thoát ly giữa lúc địch đang tiến hành khủng bố mạnh, đã làm cho các tổ chức và hoạt động của quần chúng bị thu hẹp, đồng thời cũng làm hạn chế rất nhiều đến sự chỉ đạo, củng cố và phát triển phong trào tại địa phương. Sau khi lực lượng tự vệ Đa Ngọc bị tấn công và chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, kẻ thù tập trung toàn bộ lực lượng để tiến hành một cuộc khủng bố vô cùng dữ dội vào phong trào cách mạng Thanh Hoá (trong đó có Xuân Minh và tổng Thử Cốc là một trong những nơi bị khủng bố nặng nề nhất). Lúc này hầu hết cán bộ, đảng viên của Xuân Minh đều sa vào lưới địch và bị giam cầm trong nhà tù đế quốc. Do thiếu hẳn lực lượng lãnh đạo nòng cốt, cho nên phong trào của địa phương gặp rất nhiều khó khăn. Từ thực tiễn này, những chiến sĩ cách mạng Xuân Minh còn rút ra được bài học nữa là trong điều kiện lực lượng kẻ thù còn đang rất mạnh thì việc giữ vững những nguyên tắc hoạt động bí mật và bám sát quần chúng để tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng là một vấn đề sinh tử sống còn của cơ sở Đảng. Đảng có mạnh thì phong trào quần chúng mới mạnh. Đảng muốn mạnh phải vững chắc về tổ chức, thống nhất về tư tưởng và thường xuyên liên hệ với quần chúng. Vì vậy, đến thời kỳ sau đó, vấn đề này được chú trọng đúng mức trên cơ sở tập trung xây dựng lực lượng chính trị và phát triển lực lượng bán vũ trang (tức lực lượng tự vệ) cho nên phong trào lại phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu để tiến lên giành thắng lợi một cách có hiệu quả cao nhất như giai đoạn vận động cách mạng tháng Tám năm 1945. Có thể nói, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả của quá trình xây dựng cơ sở Đảng và lực lượng cách mạng vững chắc từ năm 1930-1945. Chính đây là một nguyên nhân chủ yếu làm cho Xuân Minh thực sự trở thành nơi đứng chân quan trọng và tin tưởng của Đảng bộ Thanh Hoá trong những ngày hoạt động bí mật.
Trải qua 15 năm hoạt động, từ ngày thành lập cho đến Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng bộ tỉnh ta đã từng gặp rất nhiều bước sóng gió, khó khăn, có lúc tưởng chừng như mất trắng. Kẻ thù hàng chục lần tập trung lực lượng đánh phá dữ dội vào Đảng bộ, làm cho cơ quan lãnh đạo và các cơ sở của Đảng bộ bị tổn thất và tan dã nhiều lần. Nhưng cứ sau mỗi lần như vậy thì những cán bộ, đảng viên còn lại ở một số địa phương (trong đó có Xuân Minh), cương quyết vì sự sống còn của Đảng đã bằng mọi giá bắt mối liên lạc với nhau để củng cố, khôi phục lại Đảng bộ một cách nhanh chóng nhất nhằm duy trì và thúc đẩy phong trào tiến lên. Trong quá trình này, hầu như mảnh đất Xuân Minh đã nhiều lần liên tục trở thành địa điểm hội tụ và liên lạc của các cán bộ, đảng viên và chiến sĩ cách mạng làm nhiệm vụ củng cố, khôi phục lại đảng bộ tỉnh nhà. Các hội nghị quan trọng như hội nghị củng cố Đảng bộ để thành lập Ban tỉnh uỷ lâm thời (1934), hội nghị thống nhất các cơ sở Đảng và lực lượng cách mạng toàn tỉnh để bầu Ban cán sự Đảng (1940), hội nghị Đảng bộ Tỉnh để bàn kế hoạch hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa và quyết định thành lập vành đai căn cứ địa cách mạng ở vùng trung du lên miền núi, cùng nhiều hội nghị quan trọng khác, v.v... đã được tổ chức tại Xuân Minh và đều thu được những thắng lợi rất to lớn. Để tiến tới những hội nghị đó, tất nhiên lực lượng cách mạng của Xuân Minh đã có nhiều đóng góp đáng kể.
Nếu như năm 1930-1931, các đồng chí Đảng viên của Xuân Minh được vinh dự trực tiếp tham gia vào cuộc vận động thành lập Đảng bộ Thanh Hoá tại Tĩnh Gia (01-01-1931), và qua những lần đóng góp vào việc khôi phục, củng cố. Đảng bộ thì đến năm 1942, một số cán bộ, đảng viên của Xuân Minh sau khi vượt khỏi nhà tù đế quốc đã trở về Thanh Hoá cùng với một số đồng chí ở địa phương khác đã thành lập ra Ban liên lạc Đảng để một lần nữa củng cố lại Đảng bộ, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh bước sang giai đoạn cao trào Việt Minh đuổi giặc cứu nước và Cách mạng tháng Tám thành công.
Chính tất cả những sự đóng góp cụ thể trên đây đã mang lại niềm tự hào chính đáng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh trong suốt 15 năm đấu tranh cách mạng.
Tóm lại, 15 năm đấu tranh dưới cờ Đảng vinh quang, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh bằng tinh thần yêu nước nồng nàn và sự hy sinh vô bờ bến, bằng ý chí kiên cường, bất khuất và tinh thần sáng tạo đã góp phần tô thắm những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Với tất cả sức vóc và niềm tự hào chân chính, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Xuân Minh lại tiếp tục vững bước đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của dân tộc (1946-1954) để góp phần giữ vững nền độc lập, tự do cho Tổ quốc.
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH TRONG
CHÍN NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1945-1954)
I. CÁC PHONG TRÀO TRONG THỜI GIAN BẢO VỆ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN (1945-1946)
Vừa mới ra đời, nhưng chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước đã phải đương đầu với vô số những khó khăn, trở lực. Nạn đói khủng khiếp của năm 1945 chưa chấm dứt thì nạn lụt và hạn hán lại liên tiếp diễn ra. Bên cạnh đó, ngân sách và các kho tàng do Nhật để lại thì hoàn toàn trống rỗng, còn tất cả mọi ngành kinh tế đều trong tình trạng đình đốn và tê liệt. Di sản văn hoá lạc hậu và các tệ nạn của xã hội cũ còn lại rất nặng nề cũng là mối tai hoạ lớn.
Giữa lúc ấy, ở miền Nam, mượn tiếng đi tước vũ khí quân đội Nhật, bọn Anh đã kéo đến để mở đường cho thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. ở miền Bắc, cũng mượn danh nghĩa ấy, 20 vạn quân Tưởng tràn vào hòng tiêu diệt và lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta. Riêng Thanh Hoá, một trung đoàn Tưởng Giới Thạch đã tiến vào chiếm đóng khu vực Thị xã. Và tại đây, bọn chúng đã gây nhiều chuyện rắc rối, đe doạ và uy hiếp liên tục chính quyền cách mạng tỉnh ta.
Chính những khó khăn to lớn và dồn dập trên đây đã đặt dân tộc ta trước những thử thách mới cực kỳ nghiêm trọng, đồng thời đe doạ trực tiếp đối với sự sống còn của nền độc lập tự do mà nhân dân ta vừa giành lại được sau hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp.
Trong hoàn cảnh đó, nhân dân Xuân Minh lại cùng với nhân dân cả tỉnh và cả nước một lần nữa đứng lên theo tiếng gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch, đoàn kết muôn người như một để bảo vệ thành quả cách mạng và giữ vững quyền độc lập, tự do.
Không thể ngồi yên để Tổ quốc bị lâm nguy và vận mệnh dân tộc bị đe doạ. Ngay từ đầu, nhiều thanh niên Xuân Minh đã hăng hái lên đường, ra nhập đoàn quân Nam tiến để vào Nam chiến đấu trực tiếp với quân thù.
Một phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam đã diễn ra sôi nổi ở vùng Xuân Minh và tổng Thử Cốc. Nhiều cuộc mít tinh và biểu dương lực lượng để ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ và phản đối thực dân Pháp nấp sau phái bộ Anh để đánh chiếm Nam bộ phủ đã được tổ chức ở các làng trong tổng.
Ngày 23-9-1945, lực lượng tự vệ và quần chúng cách mạng Xuân Minh đã mang theo băng, cờ, biểu ngữ, khẩu hiệu và vũ khí xuống tham dự cuộc mít tinh biểu tình thị uy lớn ở Thiệu Hoá. Tại đây, lực lượng vũ trang và nhân dân Xuân Minh cũng như lực lượng vũ trang và nhân dân toàn huyện đã biểu lộ ý chí quyết tâm trong việc bảo vệ chính quyền cách mạng và nền độc lập tự do cho Tổ quốc. Có thể nói, từ tháng 9 đến cuối năm 1945, khí thế cách mạng ở Xuân Minh dâng lên mạnh mẽ chưa từng thấy.
Trong những ngày này, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang ở Xuân Minh không ngừng được củng cố và tăng cường. Phong trào luyện tập quân sự và tập võ dân tộc của tự vệ và dân quân du kích diễn ra sôi nổi ở các làng. Việc tuần tra canh gác và bảo vệ trật tự trị an trong thôn xóm được bố trí rất cẩn mật, chu đáo.
Để đáp ứng kịp thời cho việc bổ sung đội ngũ lãnh đạo cốt cán tại địa phương, công tác phát triển Đảng cũng bắt đầu được chú ý. Đến cuối năm 1945, cơ sở Đảng ở khu vực Xuân Minh đã có 10 đồng chí Đảng viên. Trong khi đó, toàn Đảng bộ Thanh Hoá lúc Cách mạng tháng Tám thành công chỉ có tất cả 50 đồng chí. Đó là những hạt nhân ưu tú đóng góp rất tích cực cho việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cơ sở.
Sau Cách mạng tháng Tám, những cải cách dân chủ đã được thực hiện từng bước rất có kết quả. Việc xoá bỏ mọi thứ thuế và nợ nần bất công do chế độ thực dân, phong kiến để lại, việc ban hành các quyền tự dân chủ, việc qui định giảm tô 25% và chia lại ruộng công điền, công thổ và ruộng vắng chủ cho nông dân một cách công bằng, hợp lý, v.v... là những việc làm cụ thể làm cho nhân dân Xuân Minh và nhân dân các nơi khác trong cả tỉnh, cả nước hết sức phấn khởi, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch. Nhờ đó mà đã động viên được sự đóng góp to lớn của nhân dân trong thời kỳ bảo vệ và củng cố chính quyền.
Để thiết thực góp phần vào việc giải quyết nạn đói còn đang hoành hành do hậu quả của chế độ thực dân, phong kiến và thiên tai để lại, chấp hành chủ trương của Chính phủ và hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, chính quyền nhân dân cách mạng lâm thời ở các làng của Xuân Minh đã phát động một phong trào tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm rất phong phú, sôi nổi. Tiêu biểu nhất là phong trào khai hoang, vỡ hoá thực hiện tấc đất, tấc vàng được triển khai nhanh chóng ở tất cả các làng. Đặc biệt, ở làng Thiên Lộc, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ, Ngọc Trung là những nơi còn nhiều hoang dậm đã được chính quyền và các đoàn thể chỉ đạo thực hiện rất tốt. Chỉ sau một thời gian ngắn, cả bảy làng đã vỡ hoang, vỡ hoá được hơn 15 mẫu đất, góp phần mở rộng diện tích canh tác tại địa phương. Từ trên những miếng đất mới được khai phá và trên các mảnh vườn của mình, quần chúng nhân dân đã nhanh chóng trồng được nhiều loại hoa màu ngắn ngày như ngô, khoai, sắn và các loại rau, bầu, bí, v.v... để kịp thời giải quyết những yêu cầu bức xúc về đời sống lúc này.
Trong lúc khó khăn, đói kém, quần chúng nhân dân Xuân Minh đã phát huy cao độ tinh thần nhường cơm, xẻ áo để giúp đỡ lẫn nhau. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về đời sống, nhưng phong trào quyên góp dưới hình thức vận động đồng tâm bớt bữa vẫn được quần chúng nhân dân ở đây hưởng ứng rất tích cực. Trong cả 7 làng, số gạo đồng tâm đã thu được trên 10 tạ để mang lên huyện giúp đỡ đồng bào ở những vùng còn bị đói kém hơn. Từ phong trào đồng tâm bớt bữa lại chuyển sang phong trào hũ gạo tiết kiệm và mỗi lần thu được cũng có tới vài tạ. Chính các phong trào này đã góp phần tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đồng thời đẩy lùi được nạn đói, ổn định được sản xuất và đời sống tại địa phương.
Để khắc phục tình trạng tài chính, ngân sách do Nhật để lại hoàn toàn bị trống rỗng, thiếu hụt, ngoài việc nhanh chóng ổn định các guồng máy hoạt động kinh tế và thực hiện một số biện pháp tích cực khác, Chính phủ đã phát động một phong trào tự nguyện đóng góp rộng lớn trong toàn dân với tên gọi là tuần lễ vàng và tuần lễ đồng. Hưởng ứng phong trào này, nhân dân trong 7 làng của Xuân Minh đã quyên góp được 57 đôi vòng, nhẫn vàng, bạc và gần 4 tạ đồng để giao nộp cho Chính phủ. Ngoài ra, còn rất nhiều người còn ủng hộ cả tiền bạc và thóc gạo. Câu ca:
Đeo vàng chỉ tổ nặng tai
Đeo vòng nặng cổ hỡi ai có vàng...
được tuyên truyền phổ biến lúc đó có tác dụng khích lệ tinh thần quần chúng rất cao. Tại cuộc mít tinh của tổng ở Trường Quanh, một số chị em của Xuân Minh đã tự nguyện cởi vòng, nhẫn để đóng góp đã tạo ra khí thế thi đua sôi nổi. Đó là những biểu hiện tốt đẹp về lòng yêu nước của nhân dân Xuân Minh.
Ngày 31-1-1946, để cải cách tiền tệ, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam, được nhân dân Xuân Minh và nhân dân cả nước hoan nghênh và tín nhiệm.
Bên cạnh việc phát động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm và đóng góp ủng hộ cho nền tài chính của nhà nước thì ở Xuân Minh, công tác văn hoá, giáo dục, y tế và xã hội cũng được chú trọng đúng mức. Đặc biệt, việc thanh toán nạn mù chữ đã được phát động mạnh mẽ và trở thành một phong trào quần chúng sôi nổi, đều khắp ở tất cả các làng. ở làng nào, ban bình dân học vụ cũng tổ chức được nhiều lớp học theo từng lứa tuổi, có làng tổ chức được 3, 4 lớp, có làng tổ chức được 7, 8 lớp. Nhiều hình thức động viên, khen thưởng, phê bình và kiểm tra được tiến hành liên tục rất sinh động. Nhờ đó mà chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào thanh toán nạn mù chữ ở Xuân Minh đã đạt được nhiều thành tích rất đáng kể vì đã thu hút được đông đảo mọi tầng lớp già, trẻ, gái, trai trong nhân dân tham gia. Ai ai cũng lấy việc đi học để biết đọc, biết viết là trách nhiệm và nghĩa vụ của một người dân yêu nước. Các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung luôn luôn được tỉnh, huyện và tổng biểu dương và khen thưởng về thành tích thanh toán nạn mù chữ.
Thời gian này, chính quyền, đoàn thể ở các làng đã huy động nhân dân mở mang nhiều đường xá trong thôn xóm để phục vụ cho việc giao thông đi lại được thuận tiện. Đặc biệt, đường liên hương, liên xã được mở rộng từ 3-5m. Đây cũng là việc làm rất lớn. Nhiều gia đình đã tự nguyện hy sinh cả ruộng, vườn, đất đai, cây cối để phục vụ cho việc mở đường.
Công tác vệ sinh phòng bệnh cũng được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Việc đào mới và tu sửa lại giếng ăn, việc phát quang để chống muỗi sốt rét, việc làm nghĩa địa tập trung, việc ăn chín uống sôi, việc dọn sạch sẽ trong thôn xóm, v.v... là những việc làm rất hữu ích có tác dụng ngăn chặn được bệnh dịch. Đây là những việc làm ý nghĩa và có tính cách mạng rất nổi bật. Ngoài ra, chính quyền và các đoàn thể còn vận động nhân dân ăn mặc theo đời sống mới (như vận động chị em phụ nữ bỏ váy thay quần, cắt tóc ngắn và không nhuộm răng đen, v.v...) và bãi bỏ các tục lệ lạc hậu mê tín dị đoan, ăn uống linh đình. Mọi đám ma, đám cưới đều do các đoàn thể đứng ra tổ chức theo đời sống mới cho nên đỡ hẳn được sự tốn kém cho nhân dân.
Nói chung, bộ mặt làng xóm và cuộc sống mới của nhân dân Xuân Minh so với chế độ cũ đã thay đổi về cơ bản. Mọi hoạt động kinh tế, xã hội đã đi dần vào thế ổn định và từng bước tiến lên vững chắc. Những khó khăn đầu tiên dần dần được đẩy lùi. Quần chúng nhân dân rất đoàn kết, phấn khởi và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch.
Để củng cố chính quyền và phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, tạo thêm sức mạnh to lớn trong việc khắc phục mọi khó khăn và chiến thắng mọi thế lực kẻ thù, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã quyết định một cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội lần đầu tiên trong cả nước.
Tại Xuân Minh, trước mấy ngày bầu cử, các cuộc hội nghị, mít tinh, rước đuốc, cổ động tuyên truyền được tổ chức liên tục rất sôi nổi và náo nhiệt. Băng, cờ, biểu ngữ, khẩu hiệu mọc lên chi chít khắp nơi. Đình làng được chọn làm địa điểm cho cuộc bầu cử được trang hoàng lộng lẫy và trang trọng.
Đúng sáng ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử được tiến hành tại các làng của Xuân Minh cũng như ở khắp các miền đất nước. Đây đúng là ngày hội lớn của toàn dân tộc. Lần đầu tiên, nhân dân Xuân Minh cùng nhân dân cả nước được tự tay cầm lá phiếu để bầu những người có tín nhiệm nhất vào Quốc hội cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước. Đó là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân ở một nước vừa mới giành được độc lập và tự do. Cuộc tổng tuyển cử lần này mang tính chất đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay gắt vì trên phạm vi cả nước, thù trong, giặc ngoài đang uy hiếp, đe doạ một cách nghiêm trọng. Tuy vậy, cuộc tổng tuyển cử vẫn diễn ra thắng lợi. Đó là một biểu hiện điển hình về sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân có ý chí sắt đá tự định đoạt lấy vận mệnh của mình.
Tháng 2-1946, sau cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội, nhân dân Xuân Minh lại tiếp tục tham gia cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp tại địa phương. Lúc này, hệ thống tổng giải tán, để thay thế vào đó là hệ thống xã. Theo quyết định của trên, toàn bộ tổng Thử Cốc được cắt chuyển về huyện Thọ Xuân và được chia ra thành 4 xã là: ái Quốc, Cao Thắng, Thọ Trường và Thọ Phú1. Các làng Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ, Thiên Lộc của Xuân Minh cùng với hai làng Trung Lập, Đại Thắng của xã Xuân Lập bây giờ là thuộc về xã ái Quốc. Chỉ có làng Phong Cốc là thuộc về xã Cao Thắng.
Bầu cử Hội đồng nhân dân xong thì Uỷ ban hành chính được thành lập để thay thế UBND cách mạng lâm thời được thành lập trong những ngày đầu tổng khởi nghĩa. Chính quyền ở làng không gọi là Uỷ ban nữa, mà chỉ gọi là tiểu ban thôn. Người đứng đầu thôn gọi là trưởng thôn.
Lúc này, Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Cao Thắng là đồng chí Nguyễn Xuân Oanh, và Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã ái Quốc là đồng chí Đỗ Huy Trinh.
Sau khi thành lập Uỷ ban hành chính xã và củng cố lại chính quyền ở các làng thì Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng cũng được tổ chức lại từ xã đến làng.
Qua cuộc bầu cử HĐND, khối đoàn kết toàn dân ở Xuân Minh lại được củng cố vững chắc. Đó là nhân tố rất quan trọng đóng góp cho việc thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã đề ra.
Đến cuối năm 1946, ở xã ái Quốc và Cao Thắng đều đã thành lập được Chi bộ riêng1. Mặc dù chưa ra hoạt động công khai nhưng Chi bộ Đảng vẫn đóng vai trò lãnh đạo chặt chẽ các đoàn thể, chính quyền, mặt trận Việt Minh và lực lượng vũ trang thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng tại địa phương. Nhờ đó mà phong trào ở đây phát triển rất toàn diện và đúng hướng. Lúc này, công tác bồi dưỡng nhận thức và lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên cũng bắt đầu được chú ý để đáp ứng với sự đòi hỏi ngày càng cao của công tác lãnh đạo.
Từ giữa năm 1946 trở đi, công tác xây dựng lực lượng tự vệ và dân quân du kích ở xã và các làng lại càng được chú ý tăng cường hơn. Không khí luyện tập quân sự và sẵn sàng chiến đấu diễn ra thật sôi động. Quần chúng nhân dân tích cực ủng hộ tiền bạc, thóc gạo, lợn, bò, v.v... cho tự vệ, dân quân du kích bồi dưỡng tập luyện và trang bị thêm vũ khí.
Giữa lúc nhân dân ta đang ra sức thi đua củng cố chính quyền và đẩy mạnh mọi hoạt động kinh tế, xã hội để khắc phục những khó khăn sau Cách mạng tháng Tám thì ở nước ta, tình hình chính trị diễn biến càng căng thẳng và phức tạp. Nguy cơ của một cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài trên phạm vi toàn quốc mỗi ngày một đến gần.
Ngày 20-11-1946, thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng ngàn quân lên Đà Nẵng. Ngày 18-12-1946, sau nhiều vụ khiêu khích trắng trợn, chúng gửi thư đòi tước vũ khí của tự vệ thủ đô và cự tuyệt việc tiếp xúc, đàm phán với Chính phủ ta. Ngày 19-12-1946, cục diện chiến tranh thực sự lan rộng ra toàn quốc và cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ của nhân dân ta bùng nổ.
Thế là, sau 16 tháng giữ vững và củng cố chính quyền (9-1945 đến 12-1946), nhân dân Xuân Minh cùng với nhân dân cả tỉnh và cả nước lại tiếp tục bước vàocuộc kháng chiến thần thánh vô cùng vĩ đại của dân tộc với một quyết tâm cao độ nhất.
II. NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH TRONG NHỮNG NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1947-1954)
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngay trong đêm 19-12-1946 thì sang ngày 20-6-1946, Hồ Chủ Tịch đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến để động viên, khích lệ mọi tầng lớp nhân dân ta chiến đấu đến cùng để bảo vệ nền Độc lập tự do trên tinh thần thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ1.
Ngày 22-12-1946, Trung ương Đảng lại ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến để xác định mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, đồng thời vạch ra phương châm của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.
Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch và thực hiện đường lối kháng chiến của Trung ương Đảng cùng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ Tỉnh, ở Xuân Minh ngay từ những ngày đầu, phong trào chuẩn bị kháng chiến đã diễn ra rầm rộ và rộng khắp. Phong trào củng cố tăng cường lực lượng tự vệ, dân quân du kích cùng với việc luyện tập quân sự, tuần tra canh gác và sẵn sàng chiến đấu được chú trọng đặc biệt. Các đoàn thể mặt trận, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên và dân quân du kích tổ chức nhiều cuộc mít tinh, rước đuốc, tuần hành, cắm trại và đốt lửa căm hờn để biểu thị tinh thần quyết tâm kháng chiến cứu Tổ quốc. Một phong trào hành động đền nợ nước được phát động sôi nổi ở các làng để đẩy nhanh, đẩy mạnh công tác chuẩn bị kháng chiến và sản xuất tự túc ở địa phương.
Tháng 2-1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của trên, một bộ phận dân quân du kích của các làng ở Xuân Minh được điều động xuống Thị xã Thanh Hoá và phố Thọ Xuân để phá huỷ nhà cửa, đường sắt, đường ô tô và cầu cống nhằm chặn bước tiến của quân thù. Bộ phận tự vệ và dân quân du kích còn lại cùng nhân dân đào phá con đường từ cầu Vàng đến Phong Lai và đắp rất nhiều ụ chướng ngại vật. Chỉ hơn 10 ngày, nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến đã cơ bản hoàn thành.
Tiếp sau đó, việc xây dựng làng kháng chiến cũng được xúc tiến một cách khẩn trương và nhanh chóng. Nhân dân đã đóng góp rất nhiều tre gai để rào làng. Hàng ngàn nhân công được huy động vào việc đào giao thông hào và đắp các ụ trực chiến ở xung quanh làng. Còn ở các gia đình thì nhân dân đều đào đắp các hầm trú ẩn và hầm cất giữ tài sản, lương thực. Đến giữa năm 1947, các làng của Xuân Minh đã thực sự trở thành những pháo đài kháng chiến kiên cố và vững chắc.
Để tập trung tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo cơ sở hoàn thành mọi nhiệm vụ mà cuộc kháng chiến yêu cầu, cũng vào thời gian đầu năm 1947, tỉnh lại chủ trương tháp các xã nhỏ để thành lập xã mới. Lúc này xã Minh Nghĩa được thành lập trên cơ sở tháp 3 xã cũ là ái Quốc, Cao Thắng và Minh Nghĩa1. Chính quyền, đoàn thể nhanh chóng được kiện toàn lại. Đồng chí Đỗ Huy Trinh lại được cử làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Minh Nghĩa. Đồng chí Trịnh Văn Lập là Bí thư Chi bộ, đồng chí Đỗ Huy Dũng là Chủ nhiệm Việt Minh2.
Công tác phát triển Đảng trong kháng chiến được đặc biệt chú trọng và từng bước thực hiện rất kết quả. Trong hai năm 1948-1949, tốc độ phát triển Đảng ở đây diễn ra thật nhanh chóng và đạt được con số rất đáng kể. Nếu như lúc mới thành lập (1947), Chi bộ Minh Nghĩa chỉ có 11 đảng viên (mà hầu hết là của Xuân Minh) thì đến năm 1949, con số của Chi bộ đã lên đến 340 đảng viên. Đây là con số kỷ lục thể hiện sự phát triển vượt bậc của cơ sở Đảng và phong trào ở đây. Có thể nói, trong những năm kháng chiến, Chi bộ Minh Nghĩa đã tỏ rõ vai trò lãnh đạo các đoàn thể, chính quyền cùng mọi tầng lớp nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Chính vì vậy mà Xuân Minh nói riêng và Minh Nghĩa nói chung luôn luôn là một cơ sở hậu phương vững chắc, cung cấp đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường và biết tổ chức chiến đấu tốt để bảo vệ địa phương.
Vì là nơi có cơ sở Đảng và phong trào mạnh, cho nên tháng 4-1948, Xuân Minh lại được chọn làm địa điểm cho hội nghị mở rộng của Đảng bộ Tỉnh để bàn về công tác xây dựng Đảng1
Đến năm 1949, Chi bộ Minh Nghĩa đã phấn đấu và đạt được ba danh hiệu Tự động, Tiến bộ và Gương mẫu do Tỉnh Đảng bộ phát động.
Song song với công tác xây dựng và phát triển Đảng, việc đào tạo, bồi dưỡng cốt cán cũng được chú trọng đúng mức để đáp ứng kịp thời với sự đòi hỏi ngày càng cao của công tác lãnh đạo, chỉ đạo các phong trào ở cơ sở. Lúc này, các đồng chí cán bộ, Đảng viên của Xuân Minh liên tiếp được tham dự các lớp huấn luyện chính trị, quân sự do tỉnh, huyện tổ chức. Nhờ đó mà trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác Lê nin, về các đường lối, chủ trương chính sách trong kháng chiến của Đảng của cán bộ, Đảng viên Xuân Minh được nâng cao không ngừng. Qua đào tạo, thử thách, nhiều đồng chí đã được điều động lên huyện, lên tỉnh công tác để đảm nhận những trọng trách lớn hơn.
Mặc dù không phải là vùng trực tiếp xảy ra chiến sự, nhưng ở Xuân Minh, nhiệm vụ đề cao cảnh giác và tổ chức tốt mọi điều kiện để bảo vệ vững chắc hậu phương trong mọi tình huống vẫn được xác định một cách sâu sắc trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vấn đề xây dựng mạnh mẽ lực lượng tự vệ và dân quân du kích lúc này vẫn là một nhiệm vụ cần kíp và rất quan trọng. Từ năm 1947 trở đi, ngoài lực lượng dân quân du kích tập trung của xã (lúc đó gọi là chủ lực xã) làm nhiệm vụ cơ động sẵn sàng chiến đấu thì ở mỗi làng, các đội tự vệ và dân quân du kích vẫn được thành lập riêng để làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác và bảo vệ địa phương. ở xã và các làng còn tổ chức được các đội lão quân, nữ quân và thiếu sinh quân. Năm 1949, xã đội được thành lập. Đồng chí xã đội trưởng đầu tiên là đồng chí Trịnh Văn Hảo (tức Đài). Trong những năm kháng chiến, lực lượng tự vệ và dân quân du kích của Xuân Minh đã trở thành một lực lượng nòng cốt chủ yếu để bảo vệ địa phương, và qua rèn luyện, thử thách, đã đạt nhiều thành tích trong huấn luyện, trong tổ chức sẵn sàng chiến đấu, cho nên luôn luôn được cấp trên biểu dương và khen thưởng. Đây cũng chính là nguồn dự trữ quan trọng để bổ sung liên tục cho lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Và thực tế, rất nhiều đồng chí đã được cầm súng tham gia chiến đấu trực tiếp ở các chiến trường.
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Minh là một trong những cơ sở đứng chân quan trọng của Đảng bộ Thanh Hoá thì giờ đây lại trở thành một trong những cơ sở hậu phương đáng tin cậy của cuộc kháng chiến.
Trong suốt những năm kháng chiến, các làng ở Xuân Minh đã liên tiếp đón nhận nhiều đơn vị, cơ quan về đóng tại địa phương như:
- Xưởng vũ khí Phạm Hồng Thái của Trung ương
- Ngân hàng liên khu Ba.
- Công đoàn Liên khu Ba.
- Trại điều dưỡng Liên khu Ba.
- Bệnh viện K71 của tỉnh.
- Trại thương binh tỉnh
- Các đơn vị bộ đội 304, 308, 312 và một bộ phận cơ quan cố vấn, cùng các kho tàng vũ khí, lương thực v.v...
Ngoài ra, Xuân Minh còn là nơi được chọn làm địa điểm cho nhiều cuộc họp và nhiều lớp huấn luyện của các cấp, các ngành của tỉnh và liên khu ba.
Trong thời gian đóng ở đây, dù là một vài năm, hay suốt cả cuộc kháng chiến, các cơ quan, đơn vị của trên đều được nhân dân Xuân Minh giành cho sự giúp đỡ nhiệt tình, to lớn về nhiều phương diện (như việc giúp đỡ từ nơi ăn, chốn ở và các phương tiện sinh hoạt đời sống đến các việc vận chuyển, làm lán trại, hoặc việc săn sóc, thăm hỏi động viên và tặng biếu tiền bạc, thóc gạo, trâu bò, vải vóc, quà bánh, v.v...). Tất cả những cái đó đều biểu hiện sự nhiệt tình cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân Xuân Minh. Và chính vì thế mà tình cảm công nông binh được củng cố, tăng cường hơn bao giờ hết. ở đây, tình cảm quân dân thật đúng là như cá với nước. Biết bao nhiêu hình ảnh cảm động về sự săn sóc, giúp đỡ bộ đội và thương binh của các tầng lớp quần chúng nhân dân Xuân Minh (mà đặc biệt là giới bà mẹ và phụ nữ) đã từng diễn ra một cách không thể nào kể hết, đã có tác dụng gây được những ấn tượng thật mạnh mẽ và sâu sắc trong tình cảm, tâm hồn của những người chiến sĩ về tấm lòng của người hậu phương.
Mặc dù là nơi có nhiều đơn vị, cơ quan đóng quân và nơi mà cấp trên thường hay tổ chức các cuộc hội nghị, nhưng Xuân Minh vẫn là một địa điểm an toàn về mọi phương diện. Điều đó cũng chứng tỏ rằng công tác trị an và việc đề cao cảnh giác của nhân dân Xuân Minh là rất tốt. Tại đây, trong những năm kháng chiến, mọi âm mưu xuyên tạc, phá hoại của địch đều được ngăn chặn kịp thời, tuyệt đối không hề có một kẻ gian nào có thể lọt vào vùng hậu cứ vững chắc và tin tưởng này.
Đi đôi với các công tác củng cố chính quyền, xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang và tổ chức bảo vệ vững chắc hậu phương trong mọi tình huống, việc ra sức phát triển kinh tế trong kháng chiến ở Xuân Minh cũng được chú trọng thường xuyên để ngày một đảm bảo trong việc cải thiện đời sống và cung cấp đầy đủ các nhu cầu cho chiến trường.
Năm 1947, cuộc vận động giảm tô 25% và chia lại công điền, công thổ cùng các loại ruộng vắng chủ ở Xuân Minh vẫn được tiến hành tiếp tục và thu được nhiều kết quả rất đáng mừng. Nông dân được giảm tô và có thêm ruộng đất để cày cấy cho nên rất phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và hăng hái tham gia tích cực vào các phong trào đẩy mạnh sản xuất ở địa phương.
Tháng 3-1948, thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch với nội dung người người thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, Uỷ ban kháng chiến hành chính Minh Nghĩa đã phát động một phong trào thi đua sản xuất sôi nổi và rộng khắp. Phong trào này đã được các giới, các đoàn thể và quần chúng nhân dân hưởng ứng tích cực. Một chiến dịch dọn bèo tây ở các hồ, mau nhằm lấy thêm diện tích canh tác, thả cá và phục vụ đời sống của lực lượng thanh niên được thực hiện nhanh chóng và rất kết quả. Để giữ nước gieo cấy và chống hạn, chính quyền còn huy động nhân dân ở các làng tập trung vào việc đào mương, đào giếng, đắp đập, khơi ngòi lấy nước ở khắp các xứ đồng.
Lúc này, một số biện pháp khoa học kỹ thuật từng bước được đưa vào thực hiện trong sản xuất đã có tác dụng nâng cao được năng suất (như việc cấy lúa một nhánh cho bông chắc, hạt mẩy để nhân giống, việc cày sâu bừa kỹ, việc gieo mạ đúng kỹ thuật, hay việc trồng khoai ụ, lấy bùn làm phân, v.v...). Đến năm 1950 thì có phong trào làm phân bắc bón ruộng.
Từ trong phong trào thi đua sản xuất, ở làng nào của Xuân Minh cũng xuất hiện những chiến sĩ thi đua nông nghiệp tiêu biểu. Đó là những hạt nhân ưu tú đóng góp rất thiết thực cho sự lớn mạnh của phong trào.
Tháng 7-1948, xã Minh Nghĩa đã tổ chức được một cuộc triển lãm nông nghiệp tại đình Xá Lê. Đây là cuộc triển lãm của một xã đầu tiên trong kháng chiến ở huyện Thọ Xuân. Cuộc triển lãm này không những chỉ trưng bày giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp điển hình (như lúa, bông, ngô, khoai, sắn, đậu, lạc và các hoa mầu khác) mà còn trưng bày giới thiệu cả các sản phẩm thủ công nghiệp (như cày, bừa, cuốc, vải sợi, thúng, rổ, gầu, bẳn, v.v...). Các loại tranh tự sáng tác để mô tả các phong trào sản xuất của các hoạ sĩ nghiệp dư cũng rất sinh động. Rất nhiều cán bộ, đoàn thể và nhân dân ở các xã trong huyện đã đến Xuân Minh để tham quan cuộc triển lãm. Có thể nói, cuộc triển lãm này đã kích thích được tinh thần thi đua sản xuất giữa các làng và các địa phương với nhau để làm ra ngày một nhiều những sản phẩm nông nghiệp phục vụ đời sống và kháng chiến.
Năm 1948, 1949, phong trào tổ đổi công, vần công, ở Xuân Minh phát triển mạnh mẽ và phổ biến. Cuối năm 1949, trong 7 làng của Xuân Minh đã có tới gần mấy chục tổ đổi công, vần công. Trên 95% số hộ nông dân đã tham gia vào tổ chức này. Đến năm 1950, các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê là những làng đầu tiên tổ chức được hợp tác xã sản xuất nông nghiệp dưới hình thức giản đơn để hướng dẫn, tập dượt nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Trong điều kiện nhân lực lao động huy động ngày càng nhiều cho cuộc kháng chiến thì việc tổ chức nông dân vào các tổ đổi công, vần công và hợp tác xã như vậy là rất tích cực. Nhờ đó mà khối đoàn kết nông thôn được tăng cường và phát huy sức mạnh to lớn trong sản xuất, canh tác, khắc phục hậu quả thiên tai và thay đổi được lối làm ăn lạc hậu, cũ kỹ, đồng thời tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tương trợ, giúp đỡ những gia đình khó khăn, neo đơn và có người đi chiến trường.
Vì có sự chỉ đạo chặt chẽ của Chi bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể, cộng với việc phát động thi đua liên tục, cho nên phong trào sản xuất của Xuân Minh trong những năm kháng chiến rất phát triển. Mấy năm liền, các làng đều được mùa, làm cho nhân dân rất phấn khởi. Năng suất lúa bình quân trước Cách mạng tháng Tám chỉ được 60-70 cân một sào, nhưng trong những năm kháng chiến đã tăng lên được 100-120 cân một sào. Riêng về bông thì vùng Xuân Minh là một trọng điểm bông của tỉnh và của huyện. Trong cả 7 làng, diện tích trồng bông là 150 mẫu. Lúc này, các làng đều thực hiện bỏ bông cỏ để sản xuất bông lùi và bông quan nông.
Tháng 4-1951, Ty Nông nghiệp đã tổ chức một cuộc họp ở làng Phong Cốc để rút kinh nghiệm về kỹ thuật trồng bông ở Xuân Minh. Đến tháng 9-1951, Ty Nông nghiệp lại tổ chức tiếp cuộc họp ở Phong Cốc để rút kinh nghiệm về việc trồng lúa vụ mùa và việc cấy lúa một nhánh để nhân giống của các làng ở đây. Thời gian này, nhờ mạnh dạn du nhập nhiều giống lúa mới như lúa mấu, dé hoa và chiêm tây cùng với các biện pháp kỹ thuật canh tác mới, cho nên năng suất mỗi ngày một tăng lên.
Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, việc chăn nuôi gia súc, đặc biệt là bò cũng rất được chú ý. Toàn xã có đến gần một ngàn con bò. Đó là nguồn sức kéo rất quan trọng ở địa phương.
Nghề quay tơ, kéo sợi và dệt vải cũng được khuyến khích đẩy mạnh hơn. Toàn xã Minh Nghĩa có trên một ngàn khung dệt thì riêng Xuân Minh đã có hơn một nửa. Lúc đó vải Phong Cốc, lụa Phong Lai là rất có tiếng. Trong kháng chiến, Xuân Minh là một trong những địa phương của tỉnh sản xuất và cung cấp được nhiều nhất về vải và sợi, góp phần tích cực cho nhu cầu của bộ đội ở chiến trường.
Được sự quan tâm, cổ vũ của tỉnh và huyện, phong trào văn hoá, xã hội của Xuân Minh trong những năm kháng chiến phát triển rất mạnh mẽ và sâu rộng. Đến năm 1950, công tác xóa nạn mù chữ ở 7 làng của Xuân Minh cơ bản đã hoàn thành. Vì vậy mà đến năm 1956, Xuân Minh đã vinh dự được Chính phủ tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba về thành tích diệt dốt và xoá nạn mù chữ. Từ phong trào này mà nhiều chiến sĩ diệt dốt của Xuân Minh đã xuất hiện với những thành tích rất xuất sắc. Song song với phong trào xoá nạn mù chữ thì việc phổ cập trình độ văn hoá cấp I ở đây cũng rất được chú ý. Các làng như Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê và Ngọc Trung đã tổ chức được một số lớp học từ lớp 1 đến lớp 5 trên cơ sở tự túc và mời thầy ở các nơi về dạy.
Do sự đòi hỏi ngày càng tăng của công tác văn hoá, giáo dục, cho nên đến năm 1949, chính quyền xã Minh Nghĩa đã tổ chức được một trường cấp II lấy tên là Trần Hưng Đạo. Trường được đặt ở nghè Xá Lê rồi sau đó lại chuyển ra Phong Cốc. Đây là xã đầu tiên trong huyện đã có trường cấp II. Trong khi đó, toàn huyện mới chỉ có một trường cấp II Đào Duy Từ (ở Xuân Lộc, Triệu Sơn bây giờ) là trường học của tỉnh sơ tán về đó. Trường cấp II Trần Hưng Đạo ở Xuân Minh có 4 lớp, mỗi lớp có từ 45-50 học sinh. Nhiều thầy giáo có tiếng đã được mời về đây để dạy. Mặc dù là trường của xã, nhưng đã thu hút được đông đảo con em nhân dân trong, ngoài huyện tham dự. Từ mái trường này ra đi, có học sinh đã phấn đấu trở thành những cán bộ khoa học có tên tuổi (như GS.TS. Nguyễn Văn Hiệu) và rất nhiều người đã thành đạt trong bước đường công tác chính trị, quân sự và khoa học nước ta.
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào xoá nạn mù chữ, bình dân học vụ và sự ra đời của trường cấp II Trần Hưng Đạo cho nên xã Minh Nghĩa mà trước hết là các làng của Xuân Minh đã được Ty Giáo dục công nhận là nơi có phong trào tiêu biểu.
Về y tế, đến năm 1949, một trạm xá của xã được xây dựng ở làng Thuần Hậu gồm 6 giường bệnh với 2 cán bộ y tế và 2 nữ hộ sinh. Và đây cũng là xã đầu tiên của huyện Thọ Xuân đã xây dựng được trạm xá. Trước năm 1945, toàn huyện chưa có nổi một nơi chữa bệnh, thế mà giờ đây, ở một xã, trong điều kiện của cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, việc ra đời một trạm xá như vậy là một cố gắng và tiến bộ vượt bậc của nhân dân Xuân Minh. Và điều đó cũng là sự biểu hiện rõ nét về tính ưu việt của chế độ mới so với chế độ cũ.
Trong kháng chiến, do công tác vệ sinh phòng bệnh được chú ý tăng cường đúng mức, cho nên đã đẩy lùi được các nạn dịch tả, sốt rét, đậu mùa, v.v... Nạn hữu sinh vô dưỡng đã giảm được đến mức tối đa. Tuổi thọ trung bình của nhân dân được tăng lên trông thấy. Lúc này, việc diệt muỗi, diệt ruồi, diệt chuột, việc đào giếng ở nơi công cộng, việc làm nhà xí ở các gia đình, việc dọn dẹp vệ sinh, v.v... là những việc thường xuyên được phát động. Nhờ đó mà làng xóm ở Xuân Minh mỗi ngày một trở nên phong quang và sạch đẹp.
Đình làng bây giờ không còn là nơi ăn uống rượu chè mà đã trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hoá, chính trị của địa phương.
Các tệ nạn mê tín dị đoan và các hũ tục lạc hậu còn rớt lại hoàn toàn bị xoá bỏ. Cuộc sống mới vui tươi lành mạnh bao trùm khắp nhân dân. ở Xuân Minh, làng nào cũng có đội văn nghệ. Nhiều tiết mục tự biên tự diễn ra đời rất bám sát nhiệm vụ chính trị, đã có tác dụng động viên cổ vũ mạnh mẽ phong trào của quần chúng nhân dân. Tại đây, bên cạnh việc phát huy văn hoá truyền thống như hát bội, hát tuồng và hát chèo thì ca hát mới và kịch nói cũng rất được chú ý phát triển. Trong kháng chiến, các đội văn nghệ của Xuân Minh còn là những đội tuyên truyền đã góp phần làm cho thôn xóm thêm từng bừng, náo nhiệt.
Hàng năm, chính quyền đoàn thể còn tổ chức nhiều cuộc thi bơi, đua thuyền, đấu vật, đấu võ, đánh cù, v.v... rất sôi nổi.
Nói chung, cuộc sống trong kháng chiến của nhân dân Xuân Minh vẫn không ngừng đổi mới và đa dạng. Mặc dù có nhiều bận rộn, vất vả nhưng nhân dân vẫn lạc quan tin tưởng ở tương lai tiền đồ tươi sáng của cách mạng.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái, tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch để đóng góp ngày một nhiều những đòi hỏi cấp thiết của cuộc kháng chiến.
Ngay từ năm 1946, phong trào đảm phụ quốc phòng ở đây đã diễn ra khá mạnh, cứ mỗi đợt cũng thu được vài tấn lúa và mấy ngàn bạc. Rồi cứ thế trong những năm kháng chiến, các phong trào ủng hộ và đóng góp đều thu hút được sự tham gia tích cực của nhân dân.
Trong phong trào lúa hoá giá (năm 1948), riêng các làng của Xuân Minh cũng thu mua được gần 20 tấn (gia đình bán ít nhất là 1 thăng = 20kg, gia đình nhiều nhất là 50 thăng = 1 tấn) và phong trào lúa khao quân (1949) đã thu mua được trên 10 tấn.
Trong tuần lễ dân quân tự túc và cấp dưỡng bộ đội địa phương (1949-1950) do tỉnh phát động đã thu được những kết quả rất đáng phấn khởi. Đây chính là cuộc vận động lớn có tính chất quần chúng sâu rộng nhằm mục đích giải quyết cho bộ đội ta ăn no để đánh thắng quân thù. Dưới sự lãnh đạo sâu sát của Chi bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể đã đề ra được nhiều biện pháp tổ chức thực hiện rất có hiệu quả. Một ban vận động chung từ xã xuống các làng được thành lập. Các hình thức vận động tuyên truyền như mít tinh, cổ động, làm vè ca ngợi, hay làm ghế danh dự cho những người đóng góp cao ngồi, v.v... đã có tác dụng rất mạnh đến sự tham gia đóng góp của nhân dân. Nhiều gia đình đã tự nguyện ủng hộ cả ruộng đất, trâu bò và các dụng cụ sản xuất để bộ đội và dân quân du kích cày cấy. Các gia đình khác lại ủng hộ tiền bạc, vải vóc, thóc gạo, hoặc nồi xanh, bát, đĩa cùng nhiều thứ khác cho bộ đội. Những ngày kêu gọi đóng góp thật đúng như một ngày hội. Kết quả đã thu được bốn chục vạn đồng (bạc tài chính lúc đó) và vài chục tấn lúa cùng hàng chục trâu bò và rất nhiều tài sản khác. Trong đợt tổng kết của huyện thì xã Minh Nghĩa được công nhận là một đơn vị đóng góp tiêu biểu nhất vì đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Năm 1950, trong phong trào mua công phiếu kháng chiến, riêng các làng của Xuân Minh đã thu được 126.300 đồng và phong trào mua công trái quốc gia (1951) lại thu được 199.280 đồng và 15 tạ lúa. Trong phong trào này, có nhiều gia đình mua phiếu hạng A từ một ngàn đồng trở lên. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, phụ lão, thiếu nhi, dân quân du kích... cũng tổ chức lao động gây quỹ để mua công phiếu kháng chiến và công trái quốc gia.
Ngoài ra, những cuộc vận động ủng hộ quĩ mua súng, quĩ Tỉnh Đảng bộ, v.v... cũng được nhân dân Xuân Minh hưởng ứng rất đông đảo.
Nói chung, qua các phong trào đóng góp, ủng hộ kháng chiến, nhân dân Xuân Minh đã biểu lộ một cách sâu sắc về truyền thống yêu nước và nhiệt tình cách mạng rất cao của mình. Tỉnh và huyện luôn luôn đánh giá cao về sự đóng góp, ủng hộ tích cực của nhân dân Xuân Minh.
Cuộc kháng chiến thần thánh của ta càng phát triển cao thì càng đòi hỏi sự đóng góp sức người sức của mỗi ngày một nhiều của nhân dân. Do đó, để đáp ứng yêu cầu bức thiết của chiến trường, đặc biệt là vấn đề lương thực, ngày 01-5-1951, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thuế nông nghiệp số 13-SL, và đến ngày 15-7-1951 lại ban hành tiếp sắc lệnh số 40-SL để công bố bản điều lệ tạm thời thuế nông nghiệp.
Sau khi tiếp thu chủ trương của trên, từ Chi bộ, đến chính quyền, đoàn thể và nhân dân đều tổ chức học tập một cách sâu rộng để hiểu rõ, thấm nhuần mục đích, ý nghĩa và nội dung của chính sách thuế nông nghiệp. Một ban thuế được thành lập từ xã cho đến làng để làm nhiệm vụ phân loại ruộng đất, bình hạng và định mức thuế cho nhân dân một cách công bằng, hợp lý. Nhiều biện pháp tổ chức thực hiện được đề ra rất thích hợp và có hiệu quả. Chính quyền và các đoàn thể đã phát huy vai trò của mình để kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này. Xã đã dựa vào các gia đình cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên để làm nòng cốt thúc đẩy phong trào. Lúc này, vấn đề thực hiện chính sách thuế nông nghiệp được xem là tiêu chuẩn để đánh giá tư tưởng và lập trường chính trị của tất cả mọi người đối với Đảng và cuộc kháng chiến. Cho nên, đây là cuộc vận động lớn có tính chất chính trị sâu sắc và tính quần chúng rộng lớn. Nhằm thực hiện tốt chính sách này, xã đã phát động một phong trào thi đua giữa các làng với nhau và việc động viên khen thưởng đã được đặt ra kịp thời. Vấn đề cổ động tuyên truyền vẫn là điểm nổi bật đã diễn ra một cách sinh động và sôi nổi ở tất cả các làng. Khắp làng xóm, cờ, băng, khẩu hiệu mọc lên san sát, suốt ngày đêm, chiêng trống khua vang lừng. ở chỗ nào cũng có cụm loa tuyên truyền và thúc dục quần chúng.
Do sự chỉ đạo sâu sát của Chi bộ đảng và sự kiểm tra đôn đốc tích cực của chính quyền và các đoàn thể, cộng với những phương pháp tuyên truyền, phát động quần chúng tốt cho nên trong đợt thuế nông nghiệp của năm 1951, cả 7 làng của Xuân Minh đã thu được hơn 160 tấn lúa. Trong 4 năm (từ 1951-1954) toàn Xuân Minh thu được gần 700 tấn lúa thuế nông nghiệp. Đó là một con số đáng kể đối với một vùng mà ruộng đất hầu hết chỉ cấy có một vụ và thường xuyên bị nạn hạn hán, úng lụt đe doạ. Nói chung, năm nào các làng của Xuân Minh cũng hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao một cách nhanh gọn.
Với việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp mà nông dân Xuân Minh lại có thêm ruộng đất để cày cấy vì do địa chủ, phú nông phân tán, bán và bỏ nhiều ruộng đất để tránh thuế. Cho nên, việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp còn mang ý nghĩa của một cuộc đấu tranh giai cấp trong chừng mực nhất định. Và trong cuộc đấu tranh này, lực lượng cách mạng của Xuân Minh đã chiến thắng.
Có thể nói, từ năm 1951 trở đi, phong trào quần chúng của Xuân Minh đã phát triển đến độ vô cùng vững chắc và toàn diện về tất cả các mặt. ở nhiều địa phương, run sợ trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, bọn phản động đã điên cuồng tìm mọi cách chống phá lại ta. Chúng tìm cách xuyên tạc, nói xấu các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, đồng thời dùng mọi thủ đoạn để lôi kéo, chia rẽ nội bộ quần chúng. Do đó, việc tăng cường đề cao cảnh giác và bảo vệ trật tự an ninh tại địa phương được chú trọng đặc biệt. ở các làng của Xuân Minh lúc này đều thành lập được các tổ ngũ gia bảo và tam gia bảo để giúp đỡ nhau thực hiện tốt vấn đề trị an. Đầu năm 1952, cấp trên quyết định thành lập lực lượng công an xã. Đồng chí trưởng công an xã đầu tiên là đồng chí Đỗ Văn Niết.
Một yêu cầu bức thiết trong thời gian này được đặt ra là phải tiếp tục thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển cao hơn nữa. Vấn đề xây dựng, củng cố Đảng phải kết hợp chặt chẽ với việc củng cố tổ đổi công, củng cố các tổ chức quần chúng và việc thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ mà trước hết là việc thực hiện đóng góp thuế nông nghiệp và huy động bộ đội, dân công cho chiến trường.
Cuối năm 1952, sau những thắng lợi to lớn của các phong trào, xã Minh Nghĩa đã tiến hành một cuộc vận động đấu tranh chính trị sâu sắc tại địa phương. Cuộc vận động này nhằm tập trung mũi nhọn vào bọn phá hoại hiện hành và có nợ máu với nhân dân, đồng thời bám chặt vào các nội dung phục vụ dân công và thanh toán thuế nông nghiệp để phân định rõ thái độ chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng rồi thông qua đó mà giải quyết các vấn đề nội bộ để đưa phong trào tiến lên.
ở một số địa phương khác trong huyện, cuộc vận động đấu tranh chính trị đã diễn ra rất phức tạp và gay gắt vì phát hiện được nhiều phản động và bọn chống đối, tiêu cực. Riêng ở xã Minh Nghĩa, chỉ trừ một số làng khác thì có một số hiện tượng chống thuế và chống dân công còn 7 làng của Xuân Minh thì hoàn toàn không có hiện tượng đó, cho nên cuộc vận động đấu tranh chính trị ở đây đã diễn ra một cách nhanh, gọn và êm nhẹ. Một số hiện tượng tiêu cực nhỏ đã được uốn nắn và giải quyết kịp thời. Thông qua cuộc vận động đấu tranh chính trị này mà Chi bộ, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức quần chúng lại được kiện toàn và củng cố một cách vững chắc hơn. Trong toàn xã, một số đảng viên kém phẩm chất và non yếu về lập trường chính trị đã bị đưa ra khỏi Đảng.
Có thể nói, cuộc vận động đấu tranh chính trị ở Xuân Minh đã thu được thắng lợi một cách nhanh chóng và tình hình diễn biến lại không gay gắt, phức tạp như một số nơi khác. Sở dĩ như vậy vì cơ sở Đảng ở đây rất vững mạnh, trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng lại rất cao. Qua cuộc vận động này, quần chúng càng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và điều đó cũng là nguyên nhân quan trọng để thúc đẩy phong trào đóng góp, ủng hộ kháng chiến phát triển mạnh mẽ, sôi nổi hơn.
Trong những năm kháng chiến, nhằm phát huy sức mạnh to lớn để chiến thắng quân thù, việc bồi dưỡng sức dân đã được Đảng ta rất chú ý quan tâm. Chính sách giảm tô, giảm tức và nhiệm vụ từng bước giải quyết yêu cầu ruộng đất cho nông dân cùng một loạt biện pháp tích cực nhằm hạn chế sự bóc lột của giai cấp địa chủ đã được tiến hành một cách có hiệu quả, làm cho quần chúng rất phấn khởi. Tuy vậy, những chính sách đó vẫn chưa đủ để bồi dưỡng nông dân lực lượng đông đảo và hùng hậu nhất của cuộc kháng chiến. Cho nên từ năm 1953, giữa lúc cuộc kháng chiến còn đang tiếp tục và bắt đầu chuyển sang giai đoạn tổng phản công thì Đảng có chủ trương tiến hành giảm tô triệt để và cải cách ruộng đất, để thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, nhằm động viên toàn dân đóng góp sức người, sức của nhiều nhất cho tiền tuyến.
Ở Xuân Minh và các vùng tự do trong tỉnh, từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo nông dân tiến hành 5 đợt đấu tranh thực hiện giảm tô và một đợt đấu tranh thực hiện cải cách ruộng đất. Kết quả đã giành được những thắng lợi rất quan trọng. Giai cấp nông dân ở Xuân Minh vô cùng phấn khởi vì có thêm ruộng đất để cày cấy, cho nên rất hăng hái lao động tăng gia, sản xuất và đóng góp rất tích cực những yêu cầu bức thiết của cuộc kháng chiến. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng để củng cố khối đoàn kết của địa phương.
Năm 1953, trong khi đang tiến hành đấu tranh thực hiện giảm tô thì xã Minh Nghĩa lại được chia nhỏ ra. Và xã Xuân Minh với 7 làng (Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Phú Tình, Yên Thọ và Thiên Lộc) đã chính thức được thành lập từ đó. Chi bộ, chính quyền, đoàn thể nhanh chóng được kiện toàn lại để tiếp tục thúc đẩy phong trào tiến lên với một tốc độ mới cho phù hợp với sự phát triển của cuộc kháng chiến.
Năm 1953-1954 là thời kỳ mà cuộc kháng chiến của ta đã chuyển sang tổng phản công để giành những thắng lợi quyết định. Đảng và Chính phủ đã huy động sự đóng góp của nhân dân lên một mức cao nhất. Lúc này, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng là nhiệm vụ trung tâm cần kíp của cả nước và đó cũng là tiếng kèn thúc dục sự tham gia đóng góp tích cực của nhân dân.
Đi theo tiếng gọi của Đảng, nhiều đoàn dân công, thanh niên xung phong và bộ đội của Xuân Minh đã liên tiếp lên đường ra tiền tuyến để làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Đã từng trải qua phục vụ các chiến dịch Cổ Lũng (1949) Quang Trung, Hoà Bình (1951), Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953), v.v..., dân công Xuân Minh càng thêm hăng hái và dày dạn kinh nghiệm trong việc phục vụ những trận đánh quyết liệt cuối cùng ở chiến trường. Từ 1953-1954, trong hơn 20 đợt dân công (cả ngắn hạn và dài hạn) thì xã Xuân Minh đã có gần 3000 lượt người ra đi trực tiếp phục vụ các chiến dịch, chỉ riêng chiến dịch Điện Biên Phủ đã chiếm hơn một nửa. Đó là chưa kể hàng ngàn lượt người phục vụ ngắn ngày tại hậu phương. Trên đường ra tiền truyến, vượt qua bao khó khăn, gian khổ, lúc lội suối băng rừng, lúc vượt đèo, vượt núi, lúc nắng mưa dầm dề, lúc đạn bom gầm réo, v.v... nhưng các đoàn dân công của Xuân Minh vẫn bền chí, bền lòng để quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao (như tiếp lương, tải đạn, mở đường và phá bom nổ chậm, v.v...). Có người đã anh dũng hy sinh ở chiến trường hay trên đường ra trận. Nhưng tất cả đều lập được thành tích xuất sắc trong công tác phục vụ tiền tuyến nên đã được cấp trên và bộ chỉ huy mặt trận biểu dương, khen ngợi.
Trong lúc hàng ngàn dân công, bộ đội và thanh niên xung phong trên đường ra tiền tuyến thì những người ở nhà vẫn tiếp tục chăm lo đẩy mạnh sản xuất và thực hiện tốt các nhiệm vụ hậu phương. Biết bao nhiêu hình ảnh cảm động về sự tương trợ, giúp đỡ của chính quyền, đoàn thể và quần chúng nhân dân đối với những gia đình có người thoát ly và đi chiến trường. Vì vậy mà những người ra đi cũng rất yên tâm để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Suốt chín năm kháng chiến, toàn xã Xuân Minh đã vinh dự có 156 người đi bộ đội và gần 20 người đi thanh niên xung phong. Trong số đó có 9 người đã hy sinh anh dũng.
Có thể nói sự đóng góp sức người sức của của nhân dân Xuân Minh trong chín năm kháng chiến chống thực Pháp là rất đáng kể. Từ trong 9 năm đó, cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân Xuân Minh đã phát huy truyền thống yêu nước và lòng nhiệt tình cách mạng để làm nên những thành tích thật đáng tự hào. Được Đảng dìu dắt và lãnh đạo, phong trào cách mạng của nhân dân Xuân Minh trong kháng chiến đã trưởng thành nhanh chóng và phát triển rất toàn diện. Với những thành tích và sự đóng góp to lớn, Xuân Minh xứng đáng trở thành một cơ sở hậu phương đáng tin cậy của cuộc kháng chiến, đồng thời góp phần tô thắm ngọn cờ bách chiến bách thắng của Đảng quang vinh.
Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Thực dân Pháp đã nhục nhã ký vào hiệp nghị đình chiến ở Giơnevơ. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng.
Thế là, từ đây cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh lại cùng nhân dân cả tỉnh, cả nước vững bước chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam với một niềm tin và hy vọng to lớn.
CHƯƠNG 4
XUÂN MINH TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
I. KHÔI PHỤC, CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ XÃ HỘI (1954-1965)
Tháng 7-1954, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu bước sang thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.
Tháng 9 1954, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã kịp thời ra Nghị quyết để chỉ rõ nhiệm vụ chung của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại hiệp định đình chiến để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc1.
Tinh thần Nghị quyết đó của Đảng đã nhanh chóng được quán triệt sâu sắc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tại Xuân Minh, trong khung cảnh tưng bừng, phấn khởi của những ngày vừa hoà bình lập lại, cán bộ, đảng viên, dân quân tự vệ và nhân dân vẫn đề cao cảnh giác để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xuyên tạc và phá hoại của địch. Mặc dù nhiều nơi ở miền núi, thành thị, nông thôn và các vùng công giáo, bọn thổ phỉ, gián điệp, phản động tay sai cho đế quốc Mỹ ra sức quấy rối và phá hoại nền an ninh chính trị của ta, nhưng ở Xuân Minh, không một kẻ gian nào có thể lọt vào được. Lúc này, công tác trị an được chú ý rất nghiêm ngặt. Lực lượng công an và dân quân địa phương được củng cố, tăng cường và ngày đêm tuần tra, cảnh giác để nhân dân yên tâm lao động, sản xuất. Những biểu hiện của tư tưởng hoà bình, nghỉ ngơi và lơ là mất cảnh giác của một số cán bộ và quần chúng đã được uốn nắn kịp thời. Qua việc học tập và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng mà cơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể của quần chúng được tăng cường, củng cố vững mạnh hơn.
Nghe theo lời gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch, mọi tầng lớp nhân dân Xuân Minh đã đoàn kết một lòng cùng với nhân dân cả tỉnh bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế (1954-1957) với một tinh thần hăng hái, quyết tâm rất cao.
Ngay từ cuối tháng 7-1954 trở đi, nhân dân ở đây đã tập trung lực lượng lao động vào việc sản xuất vụ mùa cho kịp thời vụ, đồng thời tranh thủ san lấp hào luỹ và phát quang các hàng rào kiên cố ở xung quanh làng để việc đi lại, sản xuất được dễ dàng và tiện lợi hơn. Thế là các làng kháng chiến đã trở thành các làng sản xuất và xây dựng.
Thời gian này, nắng hạn kéo dài. Việc tạo ra nguồn nước để cấy hết diện tích là một việc cần kíp ở địa phương. Một phong trào thuỷ lợi được phát động nhanh chóng và sôi nổi ở tất cả các làng. Quần chúng nhân dân đã hăng hái tham gia vào việc đắp đập sông Cầu Chày và đào giếng, khơi mương, đắp bờ giữ nước ở khắp các xứ đồng. Các tổ đổi công của các làng đã phát huy vai trò tích cực của mình trong việc lấy nước chống hạn này. Nhờ vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, tất cả mọi diện tích đất canh tác ở đây đều đã được cấy kịp thời vụ.
Bên cạnh việc ra sức khôi phục và phát triển sản xuất ở địa phương, nhân dân Xuân Minh còn tích cực đóng góp sức người, sức của vào các phong trào chung của tỉnh. Nhiều người đã hăng hái tự nguyện đi thanh niên xung phong, đi công nhân cầu đường, hoặc công nhân các công trường, nhà máy để làm nhiệm vụ khôi phục kinh tế và kiến thiết xây dựng. Đặc biệt, hàng trăm nhân công của Xuân Minh được huy động liên tiếp lên công trường sửa chữa đập Bái Thượng, đập Bàn Thạch, cống Phong Lạc và hệ thống nông giang sông Chu đã tích cực lao động ngày đêm để góp phần đưa nước về đồng ruộng ở các vùng trong tỉnh (12-1954).
Cuối năm 1954, một trận lụt lớn làm vỡ đê sông Chu đã gây rất nhiều thiệt hại và tình trạng đói kém đối với nhiều địa phương trong, ngoài huyện Thọ Xuân. Riêng vùng Xuân Minh còn bị ảnh hưởng trực tiếp của nạn lụt sông Cầu Chày, cho nên lúa và hoa màu cũng bị trôi, hỏng hết. Trước tình hình khó khăn nghiêm trọng này, nhân dân Xuân Minh lại phát huy tinh thần đoàn kết và tương thân, tương ái để giúp đỡ lẫn nhau vượt qua nạn đói. Đảng và chính quyền địa phương còn tìm ra nhiều biện pháp tích cực để nhanh chóng ổn định tình hình đời sống nhân dân. Một phong trào trồng các loại cây lương thực, hoa màu và rau quả ngắn ngày đã được phát động sâu rộng ở tất cả các làng. Nhờ đó mà tình trạng khó khăn, đói kém đã bị đẩy lùi.
Đầu năm 1955, giữa lúc phong trào quần chúng đang trên đà khí thế và vừa thu được một số thành tích bước đầu thì ở Xuân Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc cải cách ruộng đất lại được tiến hành tiếp tục một cách khẩn trương để hoàn thành triệt để nhiệm vụ phản phong một nhiệm vụ chiến lược cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ. Đến cuối năm 1955, cuộc cải cách ruộng đất ở Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu được những kết quả rất to lớn: Toàn bộ giai cấp địa chủ bóc lột ở tất cả các làng đã bị đánh đổ, quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất hoàn toàn xoá bỏ. Hơn 500 mẫu ruộng đất và hơn 100 gian nhà ngói cùng mấy chục trâu, bò và nhiều tài sản khác của giai cấp địa chủ đã bị tịch thu để chia cho hàng mấy trăm hộ nông dân. Riêng về ruộng đất thì đối với những người không có và thiếu ruộng đều được chia để đảm bảo mức bình quân hơn 3 sào/ một nhân khẩu.
Thế là, đến đây, sau 25 năm đi theo Đảng làm cách mạng (1930-1955), giai cấp nông dân Xuân Minh đã được thực hiện triệt để khẩu hiệu người cày có ruộng một khẩu hiệu chiến lược được đề ra từ ngày Đảng ra đời. Với cải cách ruộng đất, giai cấp nông dân Xuân Minh hoàn toàn thoát khỏi ách bóc lột phong kiến có từ ngàn đời để thực sự bước sang địa vị làm chủ về chính trị, kinh tế tại địa phương.
Qua cải cách ruộng đất, nhận thức, quan điểm, lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng cao, làm cho tình cảm công nông liên minh và khối đoàn kết nông thôn được củng cố, tăng cường vững chắc hơn bao giờ hết. Tuy vậy, quá trình cải cách ruộng đất cũng có phạm những sai lầm phổ biến và nghiêm trọng (đặc biệt là việc chỉ đạo thực hiện). Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch đã kịp thời phát hiện và chỉ đạo việc sửa sai từ cuối năm 1956 đến giữa năm 1957. Nhờ đó mà những thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất mới phát huy được ý nghĩa tích cực một cách trọn vẹn. Qua sửa sai, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân càng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng. Rồi tiếp sau đó, sơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể lại được củng cố, kiện toàn một cách vững chắc hơn. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng ở đây mới được phát huy và đáp ứng kịp thời với sự đòi hỏi ngày càng cao của việc tổ chức, chỉ đạo các phong trào quần chúng.
Song song với cải cách ruộng đất, việc ra sức phát triển sản xuất để phục hồi kinh tế tại Xuân Minh cũng được đẩy mạnh toàn diện. Các tổ đổi công ở các làng lúc này đã thu hút được 100% số hộ nông dân tham gia đã hoạt động ngày, đêm rất tích cực và có hiệu quả trong các phong trào làm thuỷ lợi, làm phân bón và khai hoang vỡ hoá để tăng diện tích gieo trồng, v.v...
Sau ba năm khôi phục kinh tế (1954-1957), đời sống của nhân dân Xuân Minh đã đi dần vào thế ổn định. Đặc biệt về mặt sản xuất lương thực một khâu cơ bản trong đời sống đã giành được thắng lợi liên tiếp trong mấy vụ đầu. Trong 3 năm, diện tích canh tác nông nghiệp của toàn xã đã tăng hơn so với 1954 là 25 mẫu. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những bước phát triển mới và hoạt động rất tích cực. Đường làng, ngõ xóm cũng được mở rộng và ngày càng phong quang, sạch sẽ hơn. Nhờ đó mà bộ mặt đời sống, xã hội của Xuân Minh đã tiến bộ so với thời kỳ trước hoà bình lập lại.
Mặc dù công cuộc khôi phục kinh tế của Xuân Minh có những biến chuyển đáng kể, nhưng nhìn chung thì nền kinh tế ở đây vẫn là nền kinh tế nông nghiệp cá thể, phân tán, nhỏ bé và nghèo nàn, lạc hậu. Giai cấp nông dân tuy đã thoát khỏi quan hệ sản xuất phong kiến nhưng vẫn phát triển một cách tự do, rời rạc và chưa đi vào một quĩ đạo thống nhất, cho nên nếu cứ để tiếp tục kéo dài thì nhất định sẽ nảy sinh xu hướng phát triển tư bản một nguyên nhân cơ bản của tình trạng người bóc lột người ở nông thôn. Đến lúc này, không phải riêng ở Xuân Minh mà là toàn bộ các vùng nông thôn trên miền Bắc, cuộc đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã được đặt ra một cách cấp bách. Giữa lúc đó, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tất cả mọi thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh để đưa miền Bắc tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Cuối năm 1958, quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết của hội nghị lần thứ XIV của Trung ương Đảng (11-1958), Đảng bộ Thanh Hoá đã phát động một phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa (mà trọng tâm là cải tạo và phát triển nông nghiệp) một cách mạnh mẽ và sâu rộng. Lúc này, đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công lên hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp rồi tiến lên hợp tác xã bậc cao.
Ở Xuân Minh, từ tháng 12-1958 và cả năm 1959, cuộc vận động hợp tác hoá diễn ra một cách nhanh chóng, rộng khắp và thực sự đã trở thành một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi và mạnh mẽ
Đến cuối năm 1959, hơn 70% số hộ nông dân Xuân Minh từ tổ đổi công đã tự nguyện tham gia hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp để quản lý 67,68% diện tích ruộng đất trong toàn xã. Lúc đầu qui mô của hợp tác xã còn nhỏ bé với vài ba chục hộ. Bình quân mỗi một làng thành lập được hai hợp tác xã nông nghiệp, hoa lợi ruộng đất mà xã viên được hưởng là 25%.
Do bước đầu đã phát huy được tác dụng của con đường làm ăn tập thể trong việc tập trung sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng cường phân bón, khắc phục tưới, tiêu, v.v... đã dẫn đến việc tăng năng suất liên tiếp trong một, hai vụ liền, cho nên đến năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp trong toàn xã Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu hút được gần 100% số hộ nông dân tham gia.
Song song với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp thì việc tổ chức các hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán cũng thu được kết quả rất đáng mừng. Tuyệt đại bộ phận nông dân Xuân Minh đã hăng hái tham gia và đóng góp nhiều cổ phần để đầu tư vốn cho các tổ chức hợp tác đó hoạt động và phát huy tác dụng . Trong thực tế, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán đã thực sự trở thành ba ngọn cờ hồng phục vụ đắc lực cho việc phát triển sản xuất và nhu cầu đời sống của nhân dân ở trong xã.
Sự thắng lợi của phong trào hợp tác hoá đã dẫn đến sự thắng lợi của việc thực hiện các chỉ tiêu sản xuất, kinh tế và văn hoá xã hội. ở Xuân Minh, từ năm 1958 đến 1960, do quan hệ sản xuất mới được xác lập, và lực lượng lao động bước đầu được bố trí hợp lý cho nên về sản xuất nông nghiệp rất được đẩy mạnh. Đặc biệt, về công tác thuỷ lợi và cải tiến kỹ thuật là những mặt có nhiều tiến bộ rõ nhất. Năng suất thu hoạch về lúa, bông, khoai, lạc và những hoa màu khác cũng tăng lên trông thấy so với thời kỳ còn làm ăn cá thể. Riêng về lúa, mỗi sào thu hoạch so với trước đã tăng được từ 15-20kg. Chính những chuyển biến cụ thể đó đã có tác dụng củng cố lòng tin cho quần chúng nông dân về ý nghĩa tích cực của con đường làm ăn tập thể. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng phát triển đồng bộ và kịp thời cùng với quá trình cải tạo và phát triển kinh tế đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của địa phương ngày càng thêm đổi mới. Lúc này, công tác giáo dục phổ thông và bổ túc văn hoá được chú trọng đặc biệt cho nên đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Như vậy, sau ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập ở Xuân Minh. Đó là một thắng lợi cơ bản có tính chất quyết định đối với việc xoá bỏ và chấm dứt tình trạng người bóc lột người ở địa phương. Từ một nền kinh tế tiểu nông, cá thể, lạc hậu và nhỏ bé, Xuân Minh đã xây dựng được một nền kinh tế tập thể thuần nhất xã hội chủ nghĩa rất ưu việt. Và chính nền kinh tế đó là động lực cơ bản tạo ra sự chuyển biến cách mạng sâu sắc và toàn diện ở đây. Qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, mọi tư tưởng tiêu cực như cá nhân, tư lợi, bảo thủ, lạc hậu, phân tán, tự phát, v.v... dần dần bị đẩy lùi. Giai cấp nông dân bước đầu đi vào con đường làm ăn tập thể đã tỏ rõ khả năng, sức mạnh trong việc phát triển sản xuất và khắc phục những hậu quả thiên tai cho nên rất vững tin đi theo Đảng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng qua đợt này, cán bộ, đảng viên được nâng cao hơn về lập trường của giai cấp vô sản. Nhiều đồng chí đã tỏ ra gương mẫu, tích cực trong việc liên hệ với quần chúng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời cương quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực cản trở phong trào. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ địa phương được củng cố và tăng cường vững chắc thêm một bước để đủ sức đáp ứng với những đòi hỏi ngày một cao của công tác tổ chức, lãnh đạo phong trào cơ sở trong giai đoạn mới.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã họp để vạch ra đường lối chung của cách mạng miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và thông qua phương hướng, chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Phát huy thành tích của 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã vững bước tiến sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần rất quyết tâm và hăng hái. Tại đây, ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá được tiến hành đồng thời đã diễn ra rất sinh động.
Dưới ánh sáng của các nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960) và của đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (2-1961), cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã được nhận thức đầy đủ và sâu sắc về đường lối, nhiệm vụ cách mạng của thời kỳ mới để rồi từ đó thấy rõ được trách nhiệm của mình sẽ làm gì để thiết thực đóng góp cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà.
Tại Xuân Minh, một phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa được dấy lên sôi nổi và đều khắp ở tất cả các làng. Nội dung và mục đích của phong trào đều nhằm đưa nền kinh tế của Xuân Minh tiến lên với tốc độc mới, nhanh chóng và toàn diện hơn. Phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại phong một điển hình tiên tiến trong ngành nông nghiệp toàn quốc lúc đó được phát động đã có tác dụng cổ vũ, khích lệ tinh thần quần chúng rất cao.
Đến cuối năm 1961, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh đã đạt được thắng lợi rất cơ bản. Tất cả các hợp tác xã bậc thấp với qui mô vài chục hộ đã được tháp lại để chuyển lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao với qui mô toàn thôn từ gần 100 hộ trở lên. Đó là một thuận lợi rất lớn để Xuân Minh bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Lúc này, toàn xã có 6 hợp tác xã (mỗi làng là một hợp tác xã) là: Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Xá Lê, Quang Hoa1 và Thiên Lộc.
Quán triệt nghị quyết Tăng cường cơ sở Đảng ở nông thôn để củng cố hợp tác xã và đẩy mạnh sản xuất toàn diện của Hội nghị Ban chấp hành tỉnh đảng bộ, tháng 11 năm 1961 Đảng bộ cơ sở Xuân Minh được thành lập, đã chú trọng rất đúng mức đến việc kiện toàn lại sự lãnh đạo của cấp uỷ và Chi bộ Đảng về mọi mặt để đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng có trách nhiệm sâu sát đối với các phong trào của quần chúng. Lúc này, việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện được xác định là nhiệm vụ trọng tâm số một. Bên cạnh việc ra sức phát triển cây lương thực thì việc phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi cũng được chú trọng.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật từ năm 1962 trở đi cũng được tiến hành thường xuyên.
Trong thời gian này, ở tất cả các hợp tác xã của Xuân Minh đều đã thực hiện xong nhiệm vụ công hữu tư liệu sản xuất và việc phân phối ăn chia theo công điểm, cho nên đã có tác dụng kích thích rất cao đối với người lao động.
Nói chung, trong giai đoạn bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), do quán triệt đúng đắn tinh thần nghị quyết của Đảng và biết vận dụng các nhiệm vụ chính trị cụ thể vào hoàn cảnh địa phương một cách thích hợp, cho nên cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Đặc biệt về mặt thuỷ lợi là mặt nổi bật nhất ở đây. Có thể nói đây là khâu cơ bản số một đối với việc phát triển nông nghiệp. Là một nơi luôn luôn bị thiên tai đe doạ và đồng ruộng thường ở trong tình trạng chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã úng, cho nên, việc canh tác nông nghiệp của Xuân Minh gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đồng ruộng ở đây không được ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống nông giang sông Chu. Mặc dù là vùng có sông Cầu Chày đi qua, nhưng để khai thác được nguồn nước cho nông nghiệp cũng không phải là chuyện dễ dàng. Trước đây, việc sản xuất, canh tác gần như lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, cho nên năng suất mùa màng thường hay bấp bênh và không ổn định. Vấn đề thâm canh tăng năng suất ở đây quả thực là điều rất nan giải, đòi hỏi phải đầu tư tiền vốn và sức lực rất lớn thì mới có thể giải quyết được. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và mấy năm sau hoà bình, mặc dù Đảng và chính quyền địa phương có chú ý phát động nhân dân làm công tác thuỷ lợi (như đào giếng, đắp đập, khơi ngòi, v.v...) trong một phạm vi và chừng mực nhất định, nhưng nhìn chung, những cố gắng đó vẫn chưa đủ đáp ứng đến yêu cầu tưới, tiêu và canh tác ở đây. Đến năm 1958, toàn xã Xuân Minh vẫn chưa có xứ đồng nào có thể cấy được hai vụ lúa. Trong tổng số 760 mẫu ruộng đất, chỉ có 1/3 diện tích là kết hợp được một vụ lúa và một vụ màu, còn lại tất cả là chỉ làm được một vụ lúa. Cho nên, nếu năm nào bị mất mùa vì thiên tai thì đời sống nhân dân sẽ cơ cực không thể nào tả hết. Căn cứ vào tình trạng cụ thể đó mà Đảng bộ và chính quyền địa phương đã tập trung mọi cố gắng để tổ chức và lãnh đạo nhân dân làm tốt công tác thuỷ lợi trong nhiều năm liền. Đặc biệt là từ khi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập ở vùng nông thôn Xuân Minh thì công tác thuỷ lợi mới thực sự trở thành một phong trào quần chúng hết sức to lớn và mạnh mẽ. Và thực tế ở đây đã diễn ra rất đúng như đường lối của Đảng đã vạch trong giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa là hợp tác hoá phải đi đôi với thuỷ lợi hoá. Chỉ có như vậy thì mới có thể giải quyết vấn đề thâm canh tăng vụ và nâng cao năng suất cây trồng được.
Từ năm 1961-1965, hàng mấy vạn ngày công đã được huy động liên tục vào việc xây dựng hệ thống thuỷ lợi và kiến thiết lại đồng ruộng trong toàn xã (như đào mương, đắp đập, khơi hồ, khơi mau và làm bờ vùng, bờ thửa, v.v...). Trong 5 năm liền, toàn xã đã đào được gần 15.000m mương trên tất cả các xứ đồng theo một qui hoạch thống nhất, đồng thời nạo vét được hàng chục hồ mau để giữ nước và kiến thiết hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa. Nhờ đó mà việc tưới tiêu chủ động đã được khắc phục một bước rất kết quả. Năm 1963, 1964 các hợp tác xã ở đây đã được trang bị một số máy bơm loại vừa và nhỏ để phục vụ việc chống úng và chống hạn.
Nhờ những cố gắng lớn lao của công tác thuỷ lợi mà việc thâm canh, tăng năng suất cây trồng ở Xuân Minh đã bắt đầu phát triển và mở ra những triển vọng rất đáng mừng. Cuối năm 1964, hàng mấy trăm mẫu ruộng đất từ chỗ chỉ cấy được một vụ lúa, nay đã chuyển sang cấy được hai vụ lúa. Đó là một tiến bộ vượt bậc mà những năm trước chẳng bao giờ có. Đây cũng là một chứng minh hùng hồn về sự ưu việt và tính hơn hẳn của con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa so với con đường làm ăn cá thể trước kia.
Năng suất lúa và các loại hoa màu đã tăng lên trông thấy. Riêng lúa đã đạt năng suất từ 4-4,5 tấn/ha hai vụ, còn khoai cũng đạt được từ 6-7 tấn/ha.
Lúc này, phong trào thi đua học tập hợp tác xã Đông Phương Hồng (xã Thọ hải) và hợp tác xã Thắng Lợi (xã Xuân Thành) là những điển hình tiên tiến trong phong trào thâm canh tăng năng suất ở tỉnh ta được phát động rộng rãi ở Xuân Minh trên tất cả các mặt. Đặc biệt, phong trào làm phân bón ruộng đã thu hút được đông đảo lực lượng thanh niên, học sinh và nhân dân tham gia phổ biến nhất là việc làm phân xanh và tận dụng đất bùn ở các ao hồ. Bên cạnh việc sử dụng phân chuồng, nhân dân Xuân Minh cũng đã mạnh dạn dùng phân bắc để bón ruộng. ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được các nhà ủ phân đúng kỹ thuật. Trên cánh đồng, hay đường làng, ngõ xóm, ở chỗ nào không phải đất canh tác đều được tận dụng để trồng điền thanh vừa sạch mát mà vừa là nguồn phân bón rất có chất lượng. Nhờ có phong trào làm phân này mà đất đai canh tác càng được tăng độ mùn và mầu mỡ hơn.
Về công cụ lao động cũng không ngừng được cải tiến ngay sau khi thành lập hợp tác xã. ở Xuân Minh đã diễn ra phong trào bỏ cày chìa vôi, lên ngôi cày 51 và dùng cào cải tiến theo kiểu Nghệ An, v.v... Để giải phóng đôi vai, một số phương tiện vận chuyển phục vụ sản xuất như xe trâu, xe bò, xe cải tiến, xe đạp thồ, xe cút kít cũng được đưa vào sử dụng rất hiệu quả. Đường xá ra đồng cũng được mở rộng để việc vận chuyển, đi lại được thuận tiện. Năm 1964, phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi và máy bừa lần đầu tiên đã có mặt trên đồng ruộng Xuân Minh và phát huy tác dụng một cách rất tích cực. 1/3 diện tích đất đai đã được sử dụng phương tiện cơ giới. Đó là một điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động chân tay nặng nề của con người.
Từ năm 1961-1965, nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật đã được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như ngâm giống theo phương pháp ba sôi, hai lạnh, cấy dầy và bỏ nhiều phân, v.v... Việc chăm bón theo từng thời kỳ sinh lý của cây trồng cũng rất được chú ý. Một số giống cũ có năng suất thấp đã bị loại bỏ để thay thế vào đó là các giống mới có năng suất cao. Tất cả những cố gắng đó đã góp phần làm cho năng suất lúa mỗi sào tăng hơn trước từ 30-40 kg thóc.
Về chăn nuôi cũng là một tiến bộ nhanh chóng. Hợp tác xã nào cũng xây được chuồng trại chăn nuôi lợn tập thể với số lượng ban đầu từ 30-50 con. Đàn trâu, bò trong toàn xã đã có tới gần 700 con. Đó là nguồn sức kéo quan trọng trong nông nghiệp. Riêng về lợn, ngoài đàn lợn tập thể thì mỗi gia đình cũng nuôi được từ một con lợn trở lên. Ngoài ra, ở các hợp tác xã còn phát triển cả nghề nuôi cá nước ngọt ở các ao hồ và nuôi vịt đàn để lấy trứng, v.v... Nhờ đó, mà nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong xã đã được giải quyết một cách thường xuyên.
Về thủ công nghiệp: ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được lò gạch, lò vôi để cung cấp cho yêu cầu xây dựng và sản xuất. Nghề mộc, nghề nề, nghề làm giắng, đan lát, kéo sợi, v.v... cũng rất được khuyến khích để tăng thu nhập đời sống gia đình, đồng thời để phục vụ cho yêu cầu đời sống của nhân dân.
Nói chung, sự nghiệp phát triển kinh tế của nhân dân Xuân Minh trong 5 năm (1961-1965) có những biến đổi rất cơ bản và nhanh chóng. Đời sống nhân dân đã được cải thiện thêm một bước. Bộ mặt xóm làng mỗi ngày một khang trang, tươi đẹp hơn. Bên cạnh đó, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất nổi bật. So với ngày hoà bình vừa lập lại, số học sinh phổ thông của xã Xuân Minh đã tăng gấp 4 lần. Toàn xã có một trường cấp I với trên 10 lớp và gần 500 học sinh. Nhiều học sinh đã được chuyển lên học cấp II, cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp. Đến tháng 9-1965, toàn xã lại được mở thêm một trường cấp II với 4 lớp và trên 200 học sinh. Công tác bổ túc văn hoá vẫn được phát triển không ngừng. Trường vừa học vừa làm cấp II, III của Xuân Minh được ra đời trong thời gian này đã phát huy tác dụng tích cực đối với việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
Về y tế: Toàn xã có một trạm xá với 5 giường bệnh và 5 cán bộ y tế (trong đó có 1 y sĩ, 2 y tá và 2 nữ hộ sinh). ở hợp tác xã nào cũng có đội vệ sinh phòng dịch chuyên môn chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Việc tiêm chủng phòng bệnh được tiến hành thường xuyên, cho nên đã kịp thời ngăn chặn được mọi dịch bệnh. Đến năm 1965, hơn 80% gia đình đã có giếng nước và 100% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Đó là một tiến bộ vượt bậc so với những năm trước đó.
Về nếp sống mới thì đã thanh toán được triệt để các tệ nạn của xã hội cũ. Mọi đám ma, đám cưới đều do đoàn thể và hợp tác xã đứng ra tổ chức, đảm bảo được sự ấm cúng, vui vẻ và giảm bớt được sự tốn kém cho nhân dân. Do đời sống phát triển nên phong trào văn nghệ quần chúng cũng có nhiều tiến bộ. ở hợp tác xã nào cũng thành lập được đội văn nghệ và thường xuyên tổ chức phục vụ nhân dân. Công tác thông tin tuyên truyền cũng phát huy được tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn, cổ động các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ.
Tháng 3-1964, trong hội nghị chính trị đặc biệt ở Hà Nội, Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi mỗi người dân phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Đáp lời kêu gọi đó, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái thi đua làm hết sức mình để phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết là phải hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu kế hoạch được giao.
Như vậy, với thời kỳ bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa vừa xác lập đã được củng cố tăng cường vững chắc hơn. Đời sống nhân dân được cải thiện một phần cơ bản. Tình trạng bất ổn định và túng đói thường xuyên đã bị đẩy lùi. Cơ sở vật chất kỹ thuật của địa phương bước đầu được xây dựng và tăng cường. Nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa đã hình thành và đang mở ra những triển vọng tốt đẹp. Tất cả những thành quả đó đã tạo ra sức mạnh và thế đi vững chắc của nhân dân Xuân Minh trong giai đoạn mới giai đoạn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến tranh.
II. VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG VÀ CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC
Giữa lúc nhân dân ta đang dốc sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đế quốc Mỹ liều lĩnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc rất điên cuồng.
Với tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng kiên cường, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái lao vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước để giữ vững lời thề không có gì quý hơn độc lập tự do.
Bước sang thời chiến, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã nhanh chóng chuyển hướng kịp thời để thích nghi với tình hình mới. Bên cạnh việc cố gắng để duy trì và phát triển sản xuất thì công tác phòng không nhân dân và tổ chức phòng thủ chiến đấu được triển khai một cách khẩn trương, mau lẹ. Đảng bộ và chính quyền địa phương đã huy động mọi lực lượng nhân dân đào được hơn 10.000m giao thông hào chạy dọc theo các đường làng, ngõ xóm, đồng thời kiến thiết được hơn 3.000 hầm trú ẩn ở các gia đình và nơi công cộng. Các lớp học phổ thông cũng nhanh chóng được phân tán đến những nơi kín đáo để đắp thành, đắp luỹ che chắn bảo vệ cho học sinh yên tâm học tập. Các lớp học này thực sự là lớp học phòng không kiên cố. Trên những gò cao, hoặc giữa cánh đồng, các trận địa trực chiến của dân quân cũng được bố trí sẵn sàng để làm nhiệm vụ săn máy bay Mỹ ở tầm thấp. ở mỗi làng đều thành lập được các đội cứu tải thương và đội phòng cháy chữa cháy để phục vụ kịp thời khi chiến sự diễn ra. Nói chung, toàn xã đều trong tư thế sẵn sàng để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Mặc dù không phải là nơi trọng điểm đánh phá ác liệt, nhưng công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở Xuân Minh vẫn được phát huy cao độ. Trong thời gian đơn vị bộ đội ra đa về đóng tại địa phương, nhân dân Xuân Minh đã hết lòng giúp đỡ về nhiều phương diện. Hàng mấy ngàn ngày công của nhân dân trong xã đã được huy động đến để cùng với bộ đội ngày đêm kiến thiết các ụ pháo và ụ che chắn ra đa. Lực lượng dân quân trực chiến cùng với các khẩu đội pháo của bộ đội đã tạo thành thế trận vững chắc bảo vệ cho ra đa hoạt động được an toàn và liên tục.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại này, nhân dân Xuân Minh cũng đã chia sẻ tình cảm cùng với đồng bào Vĩnh Linh, Quảng Bình để đưa gần 300 cháu về nuôi và săn sóc. Đến khi kết thúc chiến tranh, các cháu đều lớn khôn và khoẻ mạnh để trở về xum họp với gia đình thân yêu sau những năm xa cách. Không những thế, nhân dân ở đây còn đón nhận và giúp đỡ một số cơ quan của tỉnh về đây sơ tán. Và trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước này, tình cảm công nông binh lại được củng cố vững chắc và tăng cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Do công tác phòng không nhân dân và sự đề cao cảnh giác ở địa phương được thực hiện tốt, cho nên, trong suốt những năm chiến tranh phá hoại, Xuân Minh vẫn không bao giờ bị lộ mục tiêu để cho địch bắn phá. Tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu không bao giờ bị giảm sút, mà trái lại, ngày một diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp hơn. Các phong trào Quyết thắng của dân quân tự vệ, Ba sẵn sàng của thanh niên, Ba đảm đang của phụ nữ, v.v... được phát động thường xuyên đã tạo ra một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi ở địa phương. Khẩu hiệu Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong suốt thời gian của hai cuộc chiến tranh phá hoại đã thực sự trở thành phương châm hành động cách mạng chung của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh.
Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều thanh niên ở đây đã hăng hái lên đường ra tiền tuyến làm nhiệm vụ chiến đấu. Trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Xuân Minh có 463 người đi bộ đội và hàng trăm người đi thanh niên xung phong, đi công nhân quốc phòng và công nhân hoả tuyến. Bình quân cứ gần 4 người dân lại có một người đi bộ đội. Đó là một tỉ lệ rất cao thể hiện sự đóng góp to lớn của nhân dân Xuân Minh đối với cuộc kháng chiến vĩ đại này. Nhờ thành tích này mà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, xã Xuân Minh đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Trên các chiến trường, nhiều đồng chí đã lập được chiến công suất sắc. Gần 500 Huân, Huy chương các loại phần thưởng cao quí của Đảng và Nhà nước đã được gắn trên ngực những người con của nhân dân Xuân Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ này đã chứng minh điều đó. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng cho sự nghiệp vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc. 102 liệt sĩ của Xuân Minh đã góp phần máu xương để tô thắm cho ngọn cờ quang vinh của Đảng.
Bên cạnh thành tích chi viện cho tiền tuyến thì thành tích về công tác hậu phương quân đội ở đây cũng là sự nổi bật. Chế độ, chính sách đối với gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được thực hiện rất đầy đủ, đặc biệt là đối với những gia đình có nhiều khó khăn đã được chính quyền, đoàn thể và hợp tác xã tập trung giúp đỡ về nhiều mặt. ở làng nào có hiện tượng chưa thực hiện tốt những chủ trương, chính sách đó đều được uốn nắn một cách kịp thời. Nhờ đó mà người ra đi và người ở lại đều phấn khởi và an tâm để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Một điều đặc biệt là suốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ở Xuân Minh không hề có một người nào đào ngũ và trốn tránh nhiệm vụ. Đó là một thành tích tiêu biểu cho truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Xuân Minh.
Song song với công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu thì nhiệm vụ duy trì và phát triển sản xuất vẫn được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm số một ở địa phương. Dưới tiếng gầm rít của máy bay và bom đạn Mỹ, trận địa sản xuất và xây dựng của Xuân Minh vẫn không ngừng phát triển và lớn mạnh. Phong trào Tay cày tay súng, tay liềm tay súng của lực lượng thanh niên và dân quân ở đây đã có tác dụng khích lệ, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái bám đồng ruộng để sản xuất. Phong trào mỗi người làm việc bằng hai cũng được phát động rất sâu rộng để tận dụng và phát huy sức lao động to lớn của mọi người.
Trong điều kiện đất đai canh tác khó khăn và luôn luôn bị thiên tai địch hoạ đe doạ, nhưng nhân dân Xuân Minh vẫn tập trung mọi cố gắng để làm thuỷ lợi, phân bón và mở rộng diện tích canh tác để thực hiện thâm canh tăng năng suất. Đến năm 1969, hơn 50% diện tích đất canh tác của Xuân Minh đã cấy được hai vụ lúa và đạt năng suất 5 tấn/ha cả năm, đồng thời đưa vụ đông trở thành vụ chính. Đó là một bước tiến đáng kể trong quá trình phát triển nông nghiệp. Lúc này, cuộc cách mạng giống và các biện pháp khoa học kỹ thuật được thực hiện phổ biến và sâu rộng cũng là một nguyên nhân làm cho năng suất thu hoạch được nâng lên. Phong trào làm ruộng tăng sản, làm bèo hoa dâu ở các làng cũng được đẩy mạnh cùng với việc cấy thẳng hàng và thực hiện các biện pháp kỹ thuật liên hoàn đã tạo ra những kết quả rất khả quan.
Bên cạnh sự tiến bộ của việc mở rộng diện tích canh tác, thâm canh tăng năng suất cây trồng và các phong trào phục vụ sản xuất khác thì về chăn nuôi cũng là một cố gắng rất lớn ở đây. Đến cuối năm 1972, đàn lợp tập thể tăng hơn so với năm 1965 là 30%. Riêng đàn lợn gia đình cũng rất phổ biến và có hiệu quả rất cao. Về đàn bò thì vẫn duy trì ở mức trên dưới 700 con.
Thắng lợi liên tục của việc phát triển sản xuất và chăn nuôi là một nguyên nhân quan trọng làm cho Xuân Minh luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu nghĩa vụ lương thực, thực phẩm của Nhà nước giao.
Nói chung, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, trải qua bao khó khăn về thiên tai, địch hoạ, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh mặc dù vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhưng vẫn giành được những tiến bộ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã (như nhà kho, sân phơi, lò giống, trại chăn nuôi, máy bơm, máy sát và nhiều công cụ cải tiến khác...) được tăng cường rất nhanh. Năng suất lúa và các loại hoa màu khác cũng đạt được những con số tiến bộ vượt bậc so với những năm trước chiến tranh. Đời sống nhân dân vẫn từng bước được cải thiện. Ngay cả lúc cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt nhất (như năm 1972) thì nhân dân Xuân Minh vẫn chắc tay cày, hay tay súng để quyết tâm phấn đấu thực hiện ba mục tiêu lớn trong nông nghiệp là: một lao động, 5 tấn thóc, 2 con lợn/ha gieo trồng. Việc phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh và toàn diện đang trên đà đi lên nhanh chóng và có rất nhiều triển vọng tốt đẹp.
Bên cạnh đấy thì sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất đáng tự hào. Mọi biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt đời sống đã được phê phán và uốn nắn kịp thời. Đội văn nghệ của xã vẫn thường xuyên mang lời ca tiếng hát để phục vụ kịp thời cuộc sống sản xuất chiến đấu ở địa phương. Trong hội diễn văn nghệ của tỉnh năm 1975, tiết mục biểu diễn của đội văn nghệ Xuân Minh đã vinh dự được tặng thưởng huy chương vàng. Tốc độ của ngành giáo dục phổ thông ở đây cũng phát triển rất nhanh. Đến năm 1975, trường cấp I, cấp II của xã có trên 700 học sinh và 26 giáo viên, nhiều năm liền được công nhận là trường tiên tiến của huyện. Số học sinh khá và giỏi mỗi ngày một tăng lên. Nhiều em còn được tham dự các kỳ thi học sinh giỏi của huyện, của tỉnh. Trường vừa học vừa làm (cấp II, cấp III) của xã được tỉnh, huyện công nhận là một điển hình về phong trào bổ túc văn hoá ở cơ sở đã và đang phát huy tác dụng cho việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ và con em nhân dân ở trong xã. Trong cuộc chiến tranh phá hoại, mặc dù có nhiều gian nan vất vả, nhưng số lượng học sinh chuyển lên cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp mỗi ngày một nhiều. Riêng hợp tác xã cũng cử nhiều cán bộ vào học ở các trường trung cấp, sơ cấp, để đào tạo thành những cán bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, thú y, cơ khí, v.v... để phục vụ trực tiếp tại địa phương. Nhà trẻ và nhà mẫu giáo của các làng cũng được phát triển, đã có tác dụng rất tốt cho nhân dân yên tâm lao động và sản xuất. Về y tế thì ở xã còn có thêm một trạm chống lao để điều trị người bệnh. Công tác vệ sinh phòng bệnh được thực hiện sâu rộng đến từng đội sản xuất Trạm xá xã đã có nhiều cố gắng đối với việc khám và chữa bệnh cho nhân dân.
Có thể nói, thông qua các phong trào chiến đấu, lao động sản xuất và phát triển văn hoá, xã hội mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh lại được củng cố và tăng cường. Đến năm 1974, tất cả các hợp tác xã ở đây đã được tháp lại để chuyển làm qui mô toàn xã. Đó là một thuận lợi rất cơ bản cho việc quản lý và điều hành sản xuất theo một guồng máy và qui hoạch thống nhất. Từ đó, phong trào tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước về quản lý trong nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa tại Xuân Minh được mở rộng từng bước một cách vững chắc.
Mùa xuân năm 1975, với cuộc tổng tấn công và nổi dậy ở miền Nam mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nửa đất nước thân yêu còn lại của chúng ta được hoàn toàn giải phóng. Từ đây, trong điều kiện Tổ quốc thống nhất, nhân dân cả hai miền Nam Bắc đã cùng chung một nhiệm vụ là giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 5
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG GIÀU MẠNH VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 2009)
I. KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ XÃ HỘI (1975 1985)
Tháng 12-1976, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), đồng thời đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là:
Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội1
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, Đảng bộ Xuân Minh đã tập trung mọi cố gắng để lãnh đạo nhân dân ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân và hoàn thành xuất sắc mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Từ đó cho đến năm 1980, sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hoá của Xuân Minh đã tiến những bước mới rất cơ bản. Việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên các mặt sản xuất, xây dựng và tổ chức đời sống được triển khai thường xuyên cùng với việc phát động rộng rãi các phong trào thi đua lao động sản xuất và cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của Xuân Minh mau đổi mới. Đảng bộ xã luôn luôn tổ chức những cuộc đấu tranh phê bình để tìm ra những mặt yếu kém về quản lý và tổ chức chỉ đạo sản xuất, rồi từ đó đề ra được những biện pháp tích cực để khắc phục nhằm thúc đẩy nền kinh tế ở địa phương phát triển toàn diện và cân đối lên một bước mới.
Trong những năm này, hàng trăm, hàng ngàn nhân lực lao động ở Xuân Minh đã lần lượt thay thế nhau để đi tham gia lao động trên các đại công trường thủ công như: Quảng Châu, sông Lý, sông Hoàng, sông Mực, Lạch Bạng, hồ chứa nước Yên Mỹ, kênh Tam Điệp, v.v... để góp phần thiết thực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng thuỷ lợi to lớn ở tỉnh ta.
Trên đồng ruộng của mình, nhân dân Xuân Minh đã ra sức cải tạo và kiến thiết lại một cách hợp lý cho phù hợp với hướng phát triển sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mặt khác, mở rộng diện tích trồng lúa hai vụ và cây công nghiệp, phục vụ xuất khẩu. Đến năm 1980, Xuân Minh không những là một trọng điểm lúa mà còn là một trọng điểm lạc ở vùng tả ngạn sông Chu của huyện Thọ Xuân.
Công tác thuỷ lợi để giải quyết vấn đề tưới tiêu ở Xuân Minh vẫn là khâu cơ bản trọng yếu, đòi hỏi phải có sự đầu tư, trang bị qui mô và khoa học của địa phương và sự giúp đỡ, hỗ trợ thêm của Nhà nước thì mới có thể khắc phục một cách ổn định được. Trong lúc chưa đủ điều kiện để giải quyết một cách triệt để, nhân dân Xuân Minh vẫn chủ động, quyết tâm khắc phục từng bước một cách cơ bản để phục vụ cho việc thâm canh tăng năng suất một đòi hỏi rất bức thiết lúc này. Trên mọi xứ đồng, hệ thống kênh mương đã được tu bổ và làm thêm một cách khẩn trương. Bên cạnh đó, việc khắc phục tình trạng lồi lõm và cao thấp không đều trên đồng ruộng cũng được tiến hành một cách gấp rút để việc tưới, tiêu được dễ dàng. Lúc này, hợp tác còn đầu tư và trang bị thêm một số máy bơm chạy dầu để khai thác nguồn nước ở sông Cầu Chày và các hồ ao. Việc tăng cường sử dụng phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi, máy bừa cũng giúp một phần quan trọng làm cho đồng ruộng Xuân Minh bằng phẳng và đỡ lồi lõm hơn. Chính tất cả những cố gắng này mà Xuân Minh mới thực hiện được việc thâm canh tăng vụ. Mặc dù không có hệ thống nông giang và điều kiện đất đai thuận lợi như các địa phương ở vùng hữu ngạn sông Chu, nhưng Xuân Minh vẫn phấn đấu giữ vững thành tích 5 tấn/ha hai vụ lúa, đồng thời cố gắng tăng cường mọi biện pháp tích cực để đưa năng suất cây trồng mỗi ngày một cao hơn.
So với một số địa phương khác ở trong tỉnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của Xuân Minh vẫn còn nghèo, nhưng dù sao, đến năm 1980 với những cái gì đã có cũng phần nào đáp ứng kịp thời những yêu cầu cần thiết của việc phát triển sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân.
Phong trào Định công hoá và học tập các điển hình tiên tiến của tỉnh trong những năm này cũng có tác dụng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh có nhiều chuyển biến rất rõ rệt, đặc biệt là việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong việc quản lý và điều hành sản xuất. Đội ngũ cán bộ quản lý từ hợp tác xã đến các đội sản xuất được kiện toàn và bổ sung những người có năng lực, nhiệt tình cách mạng vào để thay thế những người có tư tưởng bảo thủ, tuỳ tiện và vô trách nhiệm. Phần lớn cán bộ quản lý từ đội đến hợp tác xã đều được đào tạo qua thử thách, rèn luyện ở địa phương và đều đã qua học tập, bồi dưỡng ở những lớp chính trị, quản lý ngắn hoặc dài ngày do tỉnh và huyện mở. Nhờ đó mà tầm nhìn và khả năng điều hành sản xuất của đội ngũ này được nâng lên.
Với sự cố gắng, quyết tâm rất cao của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, hợp tác xã và toàn thể nhân dân, mà Xuân Minh từ một xã có nhiều khó khăn về điều kiện đất đai, canh tác đã trở thành một xã vững vàng trong phát triển sản xuất, đặc biệt là việc sản xuất lương thực và chăn nuôi là những mặt có nhiều tiến bộ nhất. Trong các năm (từ 1976-1980), nghĩa vụ lương thực và thực phẩm ở đây luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu được giao. Chính thành quả của việc phát triển sản xuất đó đã giúp cho Xuân Minh thúc đẩy được các phong trào thi đua xây dựng, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi bọn phản động bành trướng, bá quyền Bắc Kinh ra mặt phản bội và phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta thì ở Xuân Minh, hàng trăm thanh niên lại phát huy truyền thống cách mạng kiên cường của những ngày đánh Pháp và đánh Mỹ để hăng hái lên đường ra biên giới phía Bắc và phía Tây Nam làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Trong tình hình mới, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã quán triệt Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X (1979) để thực hiện phương hướng chiến lược chung ở trong tỉnh là:
Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết nhất trí, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi nhân tố tích cực, khắc phục mọi khó khăn và những mặt tiêu cực, tiếp tục tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý, kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhằm đẩy mạnh và mở rộng các ngành sản xuất, tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các yêu cầu của chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Đồng thời làm tốt nhiệm vụ quốc tế, nhất là đối với tỉnh bạn Hủa Phăn. Cho đến nay, sự phấn đấu đó đã và đang trở thành những hiện thực hết sức tốt đẹp1.
Từ năm 1981 trở đi, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phấn đấu một cách cao nhất để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, chỉ tiêu trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985), góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngay từ năm 1981 năm đầu tiên bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, Đảng bộ Xuân Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (13-1-1981) về việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (mà lúc đó gọi là khoán 100). Nhờ đó, mà chỉ sau một thời gian ngắn, ý thức làm chủ ruộng đồng và năng suất lao động của các xã viên đã tăng lên rõ rệt. Lúc này, Đảng uỷ xác định việc hoàn chỉnh công tác thuỷ lợi là một trung tâm hàng đầu cần phải được tập trung toàn tâm, toàn lực để giải quyết một cách dứt điểm và nhanh chóng nhất. Và chỉ có như vậy thì mới có thể chấm dứt được tình trạng hạn, úng một khó khăn thường xuyên diễn ra ở đây. Thời gian này, tỉnh cũng nhất trí đầu tư hỗ trợ cho Xuân Minh về tiền vốn, vật tư, thiết bị để xây dựng ở đây một trạm bơm điện cỡ vừa.
Đến năm 1983, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Sở Thuỷ lợi và Công ty Điện lực Thanh Hoá, cộng với sự cố gắng to lớn của toàn thể Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh mà trạm bơm điện của địa phương tại sông Cầu Chày đã được xây dựng hoàn chỉnh và chính thức bước vào hoạt động phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp. Thế là, sau bao nhiêu năm ước mơ và phấn đấu, vấn đề chủ động giải quyết nguồn nước tưới cho hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của Xuân Minh đã trở thành hiện thực. Có thể nói ngày khánh thành trạm bơm điện Xuân Minh đã thực sự trở thành một ngày hội lớn của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Từ đây, vấn đề thâm canh, tăng vụ và tăng năng suất cây trồng sẽ mở ra nhiều triển vọng và hứa hẹn tốt đẹp.
Qua thực tế của mấy vụ đầu (từ 1983 đến nay), năng suất thu hoạch ở Xuân Minh đã tăng lên trông thấy. Bình quân mỗi sào đã đạt được từ một tạ rưỡi đến hai tạ lúa. Đó là những con số kỷ lục mà trong những năm trước đây chẳng bao giờ có. Với đà này, triển vọng 6, 7, 8 tấn/ha hai vụ lúa của Xuân Minh đã xích lại rất gần trong tầm tay với.
Trong thời gian tới, vấn đề kiến thiết đồng ruộng và tu bổ, cải tạo hợp lý hệ thống tưới tiêu trong toàn xã vẫn còn phải tiếp tục hoàn chỉnh thêm một bước để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển sản xuất và thâm canh tăng năng suất ở đây.
Mấy năm vừa qua, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã được đẩy mạnh và áp dụng phổ biến tại Xuân Minh. Hợp tác xã cũng rất chú ý đến việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất. Việc cải tạo đất và kiến thiết đồng ruộng, việc tận dụng các nguồn phân hữu cơ đi đôi với việc tăng cường phân hoá học, việc phòng trừ sâu bệnh và các biện pháp kỹ thuật liên hoàn, gieo cấy, chăm bón, v.v... được phát động rộng rãi, thường xuyên cũng góp phần tích cực để năng suất thu hoạch ở địa phương mỗi ngày một tăng lên.
Trong tổng số hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của toàn xã bây giờ, về cơ bản đã được qui hoạch lại để sử dụng theo hướng thâm canh và chuyên canh mà tỉnh và huyện đề ra để nhằm mục đích phát triển trồng trọt, chăn nuôi và xuất khẩu. ở đây, ngoài 70% diện tích để thâm canh lúa, hợp tác xã còn giành gần 30% diện tích để trồng lạc và các loại hoa mầu khác. Riêng về lạc trong năm 1983, xã Xuân Minh được công nhận là xã loại hai ở trong tỉnh có thành tích về sản xuất lạc để xuất khẩu.
Trên cơ sở thực hiện tốt tinh thần của Chỉ thị khoán 100, việc bố trí lực lượng lao động cũng được sắp xếp lại một cách hợp lý để tận dụng triệt để sức lao động ở trong xã. ở đây, ngoài lực lượng đông đảo tập trung vào việc trồng trọt, chăn nuôi, còn có các đội chuyên về thuỷ lợi, về ngành nghề, v.v... Tất cả những cố gắng đó đã làm cho Xuân Minh ngày càng phát huy được nhiều về hiệu quả lao động cũng như về đất đai tại địa phương. Cũng bởi vì thế mà mọi chỉ tiêu nghĩa vụ Nhà nước qui định đều được thực hiện mỗi ngày một cao hơn.
Về nghĩa vụ lương thực, cả năm 1982 chỉ có 160 tấn thì năm 1985 lại tăng lên đến mức 520 tấn và thực tế đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Về nghĩa vụ thực phẩm trong hai năm 1982 1983 cũng hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao. Năm 1982, đạt 22 tấn với số lợn là 1.200 con. Năm 1983, tăng lên 32 tấn và số lợn là 1.500 con.
Ở Xuân Minh, ngoài đàn lợn tập thể thì đàn lợn của gia đình cũng phát triển một cách nhanh chóng. Nếu như những năm trước, mỗi gia đình chỉ nuôi bình quân cả năm được 1 con đến 1,5 con thì giờ đây đã nuôi được từ 2 con trở lên trong cả năm. Do đó, trong mấy năm vừa qua, ngoài việc đảm bảo lợn nghĩa vụ, nhân dân trong xã còn hăng hái tự nguyện bán lợn cho Nhà nước theo giá khuyến khích và đổi hàng. Bên cạnh đó, việc phát triển chăn nuôi cá cũng đã được chú ý hơn trước. Diện tích thả cá được tu bổ và mở rộng nhiều hơn. Hàng năm, toàn xã cũng thu hoạch được hàng chục tấn cá. Đó là nguồn thực phẩm quan trọng để giải quyết nhu cầu đời sống nhân dân.
Với những thành quả đạt được trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, và hiện tại, đã đi vào thế tương đối ổn định. Năm 1985, gần 100% gia đình ở trong xã đã có nhà ngói, sân gạch với cả một hệ thống giếng nước, nhà tắm và nhà xí rất sạch sẽ. Phần lớn các gia đình đều có xe đạp và các đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt cần thiết. Gần 20% gia đình có đài bán dẫn để nghe thời sự, tin tức. So với trước Cách mạng tháng Tám thì hiện thực đó là sự đổi đời to lớn và là sự tiến bộ vượt bậc. Tất cả những cảnh thiếu đói, mất bữa đã được giải quyết triệt để. Những cảnh gác hái thì treo niêu và mùa đông thì đắp chiếu, mùa hè thì che mưa như thời kỳ trước cách mạng đã vĩnh viễn qua từ lâu rồi. Giờ đây, nhu cầu đời sống ngày càng cao, đòi hỏi toàn thể mọi người trong xã phải quyết tâm rất lớn để đưa nền kinh tế Xuân Minh phát triển lên trình độ cao một cách toàn diện thì sự ấm no, hạnh phúc mới bền vững và đúng ý nghĩa một cách trọn vẹn.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật cũng góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá và ngược lại, cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá cũng góp phần tích cực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Thực tế đó đã thể hiện rất rõ ở Xuân Minh.
Cho đến nay, sự nghiệp văn hoá xã hội của Xuân Minh cũng phát triển một cách toàn diện và đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Về văn hoá: Việc xây dựng nếp sống mới và con người mới xã hội chủ nghĩa ở địa phương được chú trọng đặc biệt. Nhờ đó mà quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong xã được phát huy cao độ trên tất cả mọi lĩnh vực. Đến lúc này, ý thức và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân đã trở thành một bản tính tốt đẹp rất phổ biến. Ai ai cũng đều có ý thức trách nhiệm đối với lợi ích của tập thể và Nhà nước. Mọi biểu hiện tiêu cực, chống đối, lạc hậu và mê tín dị đoan đã được giải quyết một cách triệt để, để nhường chỗ cho nếp sống văn minh lành mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa được bao trùm. Hiện nay, toàn xã có riêng một Chi bộ văn hoá để tập trung chỉ đạo công tác này rất hiệu quả. Nhà thư viện được thành lập trong mấy năm qua đã phát huy tác dụng tích cực trong việc phục vụ sản xuất và nâng cao tri thức cách mạng và khoa học kỹ thuật cho cán bộ, nhân dân. Đội văn nghệ mạnh của xã cũng tích cực phục vụ đời sống sản xuất và chiến đấu ở địa phương. Nhiều vở kịch tự biên, tự diễn đã cổ vũ, khen chê kịp thời, đã có tác dụng phục vụ các nhiệm vụ chính trị rất nhạy bén. Đội thông tin lưu động cũng thường xuyên cổ động, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó cũng là một mũi nhọn của trận địa tuyên truyền ở địa phương.
Về giáo dục: Đến năm 1985, trường phổ thông cơ sở (cấp I, II) của Xuân Minh đã có tất cả là 26 lớp với trên một ngàn học sinh và 45 giáo viên. Chất lượng giảng dạy và học tập ở nhà trường mỗi ngày một tiến bộ. Số học sinh vào trường cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp tăng lên gấp bội so với mấy năm trước đó. Hiện nay, toàn xã đã có gần 400 người có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hiện đang công tác ở các cơ quan, đơn vị nhà nước, trong đó có hai người đạt trình độ phó tiến sĩ. Trường vừa học vừa làm của xã bây giờ có 4 lớp (từ lớp 10 đến lớp 12) và gần 200 học sinh. Đó cũng là một trong số những trường tiên tiến của huyện. Toàn xã có một hệ thống nhà trẻ, nhà mẫu giáo rất chu đáo, đã phát huy rất tích cực trong việc nuôi, dạy trẻ để phục vụ nhân dân yên tâm lao động, sản xuất.
Về y tế: Trạm xá xã hiện nay có 3 y sỹ, 2 y tá và 10 giường bệnh. Ngoài ra, ở đây còn có một trạm chống lao cách ly và 8 giường bệnh, do 1 y tá chuyên trách điều trị. Việc kết hợp điều trị đông, tây y cũng được chú trọng. Hàng năm, công tác vệ sinh phòng bệnh và tiêm chủng được thực hiện chu đáo. Đường làng, ngõ xóm mỗi ngày một sạch sẽ, phong quang. Nếp sống ăn ở vệ sinh đã trở thành phổ biến. Nhờ vậy mà ở Xuân Minh, các dịch bệnh nguy hiểm đã hạn chế và được ngăn chặn kịp thời.
Về thể dục thể thao thì xã cũng xây dựng được sân bóng đá, bóng chuyền để thanh niên, học sinh thường xuyên tập luyện và thi đấu.
Trải qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ xã Xuân Minh cũng lớn mạnh không ngừng. Cho đến năm 1985, toàn Đảng bộ có 282 đảng viên. Số đảng viên trẻ có năng lực và nhiệt tình cách mạng đã được bổ sung khá đông đảo. Đặc biệt là lực lượng đảng viên nữ ngày càng tỏ ra có nhiều khả năng đóng góp cho sự lớn mạnh của phong trào. Mấy năm qua, Đảng bộ luôn luôn tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị và đấu tranh phê bình cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ không ngừng được tăng cường. Nói chung, toàn thể Đảng bộ Xuân Minh hiện nay rất đoàn kết, nhất trí cho nên, đã trở thành một động lực quyết định để thúc đẩy phong trào ở đây phát triển một cách toàn diện và vững chắc.
Tóm lại, từ năm 1954 đến 1985, trải qua 31 năm phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. 31 năm đó được ghi vào lịch sử xã nhà như một đoạn đường thắng lợi vẻ vang. Sau 31 năm, bộ mặt đời sống xã hội, kinh tế của địa phương thay đổi một cách toàn diện cùng đất nước.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phát huy mọi khả năng, cố gắng để tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa để thiết thực góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ tiếp theo.
1 - Xã ái Quốc bao gồm các làng: Trung Lập, Bất Đạt, Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ và Thiên Lộc.
- Xã Cao Thắng bao gồm các làng: Phong Cốc, Phong My, Thọ Tân, Phong Lai, Xuân Phô (tức Nỗ Đào)
- Xã Thọ Trường bao gồm các làng: Long Linh Nội, Long Linh Ngoại và Căng Hạ.
- Xã Thọ Phú bao gồm các làng: Phú Hậu, Cốc Thôn, Ngọc Quang Thượng, Ngọc Quang Hạ và Cao Phú.
2 Xã Minh Nghĩa cũ bao gồm các làng: Kênh Hoạch, Phú Trung, Phú Xá, Trung Vũ Thượng và Trung Vũ Hạ.
3 Xã Xuân Minh gồm các làng: Phong Cốc, Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê (Vinh Quang), Quang Hoa (Phú Tình + Yên Thọ) và Thiên Lộc.
- Xã Xuân Tân gồm các làng: Thọ Tân, Xuân Phô, Phong My, Ngọc Quang Thượng, Ngọc Quang Hạ.
- Xã Xuân Lập gồm các làng: Phú Xá, Trung Vũ Thượng, Trung Vũ Hạ, Trung Lập, Bất Đạt (tức Đại Thắng) và Tấn Viên.
- Xuân Lai: Kênh Hoạch, Phú Trung và Phong Lai.
1 Lý trưởng là kẻ đứng đầu trong làng, chịu trách nhiệm chung, còn phó lý thì giúp việc lý trưởng.
- Hương kiểm chịu trách nhiệm về trị an nội gia cư, ngoại đồng điền.
- Hương mục chịu trách nhiệm điều dân đi phu đắp đê, làm đường...
- Hương bạ coi việc sinh tử, giá thú.
- Hương bản giữ quĩ.
1 Những người đến tuổi nộp sưu đều được phát thẻ. Nhưng tuỳ mức sưu cao thấp mà được nhận thẻ xanh, vàng, đỏ...
1 Thanh niên Cách mạng đồng chí hội là một tổ chức cách mạng do đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập (6-1925) ở Trung Quốc.
- Tân Việt cách mạng Đảng cũng là một tổ chức Cách mạng được thành lập cũng từ năm 1925. Lúc đầu, có tên là Hội Phục Việt (do các sĩ phu ở Trung Kỳ lập ra), sau lại đổi tên là Hội Hưng Nam và Việt Nam Cách mạng Đảng. Đến khi liên lạc được với tổ chức thanh niên thì mới đổi lại tên là Tân Việt cách mạng Đảng.
Cả hai tổ chức này đều là những tổ chức tiền thân của Đảng bộ Thanh Hoá sau này.
1 Đồng chí Nguyễn Xuân Thuý sinh ngày 01-5-1900 và đồng chsi Nguyễn Văn Hổ (tức Nguyễn Văn Lãng, Nguyễn Văn Phổ, Nguyễn Thạch, Giang Hồ) sinh ngày 8-8-1908.
2 Thời kỳ đầu từ 1926-1927, hầu hết đảng viên Tân Việt đều là những nhà khoa bảng hoặc có thế lực về kinh tế, dần dần từ cuối 1927 trở đi thì mới kết nạp được nhiều đảng viên thuộc tầng lớp trẻ trong thanh niên, học sinh ở thành thị và nông thôn. Chính số này là lực lượng rất hăng hái và kiên định theo lập trường của chủ nghĩa Mác Lê Nin.
1 7 đảng viên Tân Việt thời gian này của Xuân Minh là các đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ, Nguyễn Xuân Tập, Đỗ Huy Trinh, Trịnh Huy Phan, Trịnh Huy Tiêu, Đỗ Đình Khanh.
2 Đến giữa năm 1929, khi đồng chí Nguyễn Xuân Thuý bị ốm, thì đồng chí Nguyễn Văn Hồ được cử chức bí thư cho đến lúc Tân Việt bị khủng bố.
1 Bài Huấn lệnh:
Cách mạng đồng chí Nói phải giữ lời
Huấn lệnh mấy chương Chớ nói dông dài
Xin chớ xem thường Lộ ra hại sự
Phải ghi vào dạ Sổ sách giầy má
Thư từ giấy má Xong việc huỷ ngay
Hình ảnh thiếp danh Chớ để vào tay
Chớ để trong mình Những phường hành chính
Khi không sứ mạng Hội nghị phải tính
Tin tức vãng lai Lời dạy lời thưa
Phải biết phòng xa Cỗ bài, bàn cờ
Khi người hỏi ta Thường nên dự bị
Chớ hề lúng túng Kết nạp đồng chí
Ra nơi công chúng Phải dấu tên mình
Gặp bạn chớ chào Giáp ất, bính, đinh
To tiếng hỏi han Tha hồ bịa đặt
Lắm điều bất tiện Chớ có bối rối
Mật thư văn kiện Khi địch bắt ta
Cất dấu có nơi Khi chúng hỏi tra
Khám xét tìm tòi Phải đều chối hết
Phải rõ từng ly Nếu chúng ác nghiệt
Trước lúc hành vi Ta cứ ung dung
Suy xét hào ly Chúng ắt ngã lòng
Kẻo người rình lén Tự nhiên vô sự
Khi đi việc kín Tra tấn có dữ
Chớ có rụt rè Giả dại giả ngây
Lên tàu xuống xe Hư thực không khai
Tự nhiên thái độ Tên bạn chớ nói
Hẹn cho đúng chỗ Chớ nghe lời dối
Chớ có sai giờ Rằng bạn thú rồi
Không được hững hờ Thần trí bồi hồi
Phải nên thần tốc Mà sa vào bẫy
Trong mình y phục Cứ như thế ấy
Hết sức thủ thường Làm gì được ta
Đừng có phô trương Kết cục phải tha
Kẻo người chú ý Hoàn toàn danh tiết
Khi đi bao bị. Hy sinh khôn siết
Thu xếp gọn gàng Phấn đấu kỳ cùng
Chớ để kềnh càng Cách mạng thành công
Cảnh binh chú mục Đại đồng thế giới./.
Nói đừng lụp chụp
(Bài Huấn lệnh này do đồng chí Nguyễn Xuân Thuý Chủ tịch UBMT Tổ quốc
tỉnh Thanh Hoá cung cấp)
1 Chính do đặc điểm này mà từ năm 1930-1931, hai Đảng bộ cộng sản của tỉnh nhà đã lần lượt ra đời một cách biệt lập với nhau.
- Dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ Bắc kỳ, Đảng bộ Thanh Hoá thành lập ở Yên Trường (Thọ Xuân) ngày 29-7-1930.
- Dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ Trung kỳ, Đảng bộ Thanh Hoá lại được thành lập ở phủ lỵ Tĩnh Gia 1-1-1931.
1 Cuộc hội nghị này tổ chức tại nhà riêng của đồng chí Nguyễn Văn Hồ.
1 Từ hai đồng chí cộng sản đầu tiên tự chuyển hoá là đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ (ở làng Phong Cốc), đã chuyển hoá thêm được một số đồng chí sang tổ chức và hoạt động cộng sản là: Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc), Trịnh Văn Phan và Trịnh Văn Tiêu (Ngọc Trung), Đỗ Huy Trinh (Thuần Hậu), Đỗ Đình Khanh (Xá Lê), Hà Duyên Đạt, Hà Duyên Kỷ (Canh Hoạch), Lê Văn Hiến, Bạ Mẫn (Phúc Bồi), Phó Khái (Yên Lãng), Nguyễn Văn Tương tức Lan Châu (Xuân Hoà), Lý Khai (Hạnh Phúc), Giáo Hoàng (Vân Lộ), Hoàng Văn Môn (Ngọc Vực).
1 Đồng chí Lê Tất Đắc quê ở xã Hoàng Phúc, Hoằng Hoá, cũng là một đảng viên Tân Việt cũ của Thanh Hoá. Năm 1930 đồng chí hoạt động ở Vinh và được kết nạp vào Đảng cộng sản thuộc Đảng bộ Nghệ An. Sau đó thì đồng chí được xứ uỷ cử về Thanh Hoá để vận động thành lập Đảng bộ tỉnh nhà.
1 Vườn Trầu này là của các đồng chí hoạt động trong quá trình chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản làm để gây quĩ cho tổ chức.
1 Ngày 20-6-1931, đồng chí Lê Văn Thiệp và đồng chí Viễn (Vĩnh Lộc) trên đường làm nhiệm vụ phát triển Đảng lên Cẩm Thuỷ thì bị địch bắt ở Eo Lê.
1 Sau thời gian tạm giam ở Thanh Hoá, đồng chí Nguyễn Văn Hồ bị kết án 10 năm tù, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý 9 năm tù và sau đó cả hai đồng chí đều bị đầy đi Lao Bảo.
1 Đồng chí Nguyễn Xuân Oanh và Hoàng Văn Môn đóng giả thợ cắt tóc để vào Nghệ An tìm bắt liên lạc với Đảng. Đến làng Yên Dũng thì hai đồng chí bị địch bắt. Nhưng vì không có tang chứng gì cho nên sau đó địch phải trả lại tự do cho 2 đồng chí.
1 10 người bị bắt là các đồng chí: Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Xuân Oanh, Nguyễn Văn Phác, Nguyễn Xuân Liên, Đỗ Hữu Ngoan, Nguyễn Văn Tập, Đỗ Văn Tục, Đỗ Văn Khoách, Đỗ Văn Mộc, Nguyễn Văn Hược.
1 Phan Văn Giáo lúc này đang muốn tranh thủ quần chúng để trúng cử vào viện dân biểu Trung kỳ, cho nên, khi nhờ giúp đỡ việc tìm thầy cãi là y đồng ý ngay.
2 Nguyễn Xuân Liên 3 năm, Đỗ Văn Mộc 2 năm, Nguyễn Xuân Tập 1 năm.
1 Phan Thanh Kỳ là một tên tay sai cáo già rất đắc lực của thực dân Pháp. Vì có nhiều kinh nghiệp trong việc trấn áp phong trào cách mạng ở Nghệ An, cho nên mặc dù đang làm tri phủ ở huyện Thanh Chương, nhưng đến đầu năm 1938, y đã được thực dân Pháp đưa về làm tri phủ Thiệu Hoá để thực hiện âm mưu dập tắt phong trào cách mạng ở đây.
1 Lúc này phủ Thiệu Hoá là nơi đầu tiên trong tỉnh thành lập được phủ uỷ.
2 Ở tổng Thử Cốc lúc đó có 2 chi bộ được thành lập là chi bộ Long Linh và chi bộ ghép của Xuân Minh.
1 Địa điểm họp: Tại nhà thờ cố Chuỷ (Xá Lê).
1 Theo con số thống kê của các làng thì có 8 nhà ngói, 8 nhà tranh bị tháo gỡ mang ra đồn, hàng trăm trâu, bò, lợn, gà, ngan, ngỗng, hàng chục tấn thóc gạo bị bọn lính ở đồn tước đoạt, v.v...
1 25 cán bộ và chiến sĩ tự vệ Xuân Minh đi Đa Ngọc là các đồng chí: Đỗ Thị Hạm, Mai Thị Kẽn, Đỗ Thị Chủ, Đỗ Huy Khuê (Thuần Hậu), Đỗ Văn Phết, Trịnh Duy Tứ, Trịnh Văn Khảng, Đỗ Văn Vợn, Trịnh Văn Hương, Trịnh Văn Chành, Đỗ Văn Lần, Đỗ Đan Quế, Trịnh Duy Quế (Xá Lê), Đỗ Văn Tuy, Trịnh Văn Nhẫn, Trịnh Văn Hảo, Đỗ Thị Dốt, Đỗ Văn Lẫu (Ngọc Trung), Lê Văn Tường, Lê Văn Cứ, Lê Văn Lịch, Lê Văn Vĩnh, Trần Văn Đá, Trịnh Văn Đậu (Phú Tình), Nguyễn Văn Liễn (Yên Thọ).
1 12 đồng chí có mặt tại chiến khu và tham gia đội du kích Ngọc Trạo là các đồng chí: Đỗ Huy Trinh, Đỗ Đình Khanh, Trịnh Văn Tiêu, Trịnh Văn Tuyênh, Trịnh Văn ất, Trịnh Văn Khâm, Mai Văn Thìn, Mai Văn Ngôn, Lê Văn Luận, Đỗ Thị Mà, Đỗ Huy Đích, Đỗ Huy Chúc.
1 Nhóm này do đồng chí Viêm Quý Ngãi lãnh đạo.
1 Nhóm này do đồng chí Lê Xuân Việt (tức Cớt) lãnh đạo.
1 Nhóm này hình thành từ tháng 3-1942 và hiện tại đã mở rộng phạm vi hoạt động sang cả Vĩnh Lộc, Yên Định. Đến tháng 10-1942, khi bắt được liên lạc với đồng chí Trịnh Ngọc Điệt thì mới thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ lâm thời (thành lập ở làng Thượng, Nga Sơn).
2 Tháng 7-1942, đồng chí Tố Hữu vượt trại tập trung Đắc Lây để về Thanh Hoá hoạt động. Thế là lực lượng cốt cán của Đảng bộ ta lại được tăng cường thêm.
1 Cuộc hội nghị có các đồng chí Phiên, Khôn, Khuê, Mễ, Dốt (Thuần Hậu), Đam (Phong Cốc), nữ Đức (Long Linh).
1 Lê Quốc Tuý (tức Cả Tuý) lãnh tụ đại việt ở Thanh Hóa cũng đích thân về Xuân Minh mấy lần để thực hiện âm mưu này.
1 Lúc này, thành phần trong UBND cách mạng lâm thời của các làng ở xã Xuân Minh hoàn toàn là các đồng chí cán bộ cách mạng rất có uy tín với nhân dân.
Các đồng chí sau đây được bầu làm chủ tịch UBND lâm thời của các làng:
- Nguyễn Xuân Thuý (Phong Cốc) - Lê Văn Uyển (Phúc Tình)
- Trịnh Văn Tiêu (Ngọc Trung) - Lê Văn Chấn (Thiện Lộc)
- Đỗ Huy Dong (Thuần Hậu) - Nguyễn Văn Thể (Yên Thọ)
- Trịnh Văn Lập (Xá Lê)
1 Lúc bầu Quốc hội thì tổng Thử Cốc vẫn thuộc Thiệu Hoá. Xem lại chú thích việc chia xã ở phần thứ nhất.
1 Lúc đầu tiên, Chi bộ Cao Thắng có 4 đồng chí, Chi bộ ái Quốc có 7 đồng chí.
1 Hồ Chí Minh: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 67.
1 Xã Minh Nghĩa được thành lập từ tháng 2 1946 gồm các làng Kênh Hoạch, Phú Trung, Phú Xá, Trung Vũ Thượng, Trung Vũ Hạ (thuộc các làng của xã Xuân Lập bây giờ).
2 Tháng 5-1947 mới có chủ trương thành lập Uỷ ban kháng chiến bên cạnh Uỷ ban hành chính. Uỷ ban kháng chiến lúc đó do đồng chí Hà Đình Vinh (tức Cớt) làm Chủ tịch. Đến tháng 8-1947, mới tháp hai uỷ ban lại thành Uỷ ban kháng chiến hành chính và lúc đó vẫn đồng chí Đỗ Huy Trinh làm Chủ tịch.
1 Hội nghị này được tổ chức ở làng Thuần Hậu.
1 Trích trong cuốn 50 năm hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Sử học, Hà Nội, ......, tr...........
1 Quang Hoa là làng mới được tháp bởi hai làng cũ là Yên Thọ và Phú Tình.
1 Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 29.
1 Trích trong Năm mươi năm hoạt động của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Thanh Hoá, NXB Thanh Hoá, 1980, tr. 214.
Lịch sử hình thành xã Xuân Minh
Lịch sử hình thành xã Xuân Minh
Đi sâu vào việc tìm hiểu cội nguồn và quá khứ của xã Xuân Minh thì thấy rằng đây cũng chính là vùng đất cổ chất chứa cả một bề dày lịch sử lịch sử của một quá trình khai phá đất đai để dựng làng, dựng xóm lịch sử của quá trình đấu tranh chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội. Không còn ngạc nhiên và suy đoán gì nữa, suốt từ làng Trung Lập, qua Xuân Minh đến Cầu Vàng, chúng ta đã tìm thấy nhiều di vật tiêu biểu của văn hoá Đông Sơn (như trống đồng dao găm hình người, và các loại đồ gốm, v.v...) cùng nhiều mộ Hán nằm rải rác trên địa phận này đã chứng tỏ rằng ngay từ thời các vua Hùng dựng nước, một bộ phận cư dân đã có mặt ở đây từ rất sớm để cư tụ và sinh sống bằng nghề trồng lúa nước. Cho nên, vào những năm đầu của công nguyên, khi bình định xong nước ta, bọn xâm lược Hán đã đến đây để cai quản và nắm chặt lấy vùng này. Mặc dù chưa có điều kiện khai quật chính thức, nhưng qua thám sát và nghiên cứu bước đầu, một số nhà khảo cổ đã đưa ra một dự đoán vùng đất này có thể thuộc vào bộ Quân Ninh của nước Văn Lang xưa.
Về mặt ngôn ngữ mà nói thì ở cả Xuân Minh và Xuân Lập, tiếng Việt cổ còn bảo lưu một cách khá đậm nét. Điều đó càng chứng tỏ tính chất lâu đời của vùng này.
Đến thể kỷ X thế kỷ bản lề và phục hưng của văn hoá dân tộc, các vùng cư trú ở trong nước, trước hết là Thanh Hoá càng có điều kiện để phát triển một cách mạnh mẽ và liên tục. Đặc biệt dưới triều Tiền Lê (989 1010), vùng Trung Lập nói hẹp và vùng Xuân Minh nói rộng ra là quê hương của Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành) người anh hùng kiệt suất của dân tộc đã có công to lớn trong việc đánh Tống bình Chiêm để giữ vững nền độc lập cho đất nước thì nhất định sẽ được giành những đặc ân và ưu ái hơn so với những vùng khác. Điều đó được thể hiện rõ rệt qua việc Lê Hoàn cho đào một con kênh đi qua vùng quê của mình (trong đó có cả Xuân Lập và Xuân Minh) để tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc canh tác và phát triển nông nghiệp ở đây.
Nếu như thời Tiền Lê, chúng ta chưa có thể biết rõ bộ mặt làng xóm ruộng đồng ở khu vực Xuân Minh phân bố cụ thể ra sao thì đến thời Lý Trần Lê, qua những bản gia phả, thần phả và địa bạ cũ của các làng còn giữ được, chúng ta lại có thể hình dung một cách sinh động về quá trình ra đời của các làng Phong Cốc, Xá Lê, Yên Thọ, Phú Tình, Thiện Lộc và Thuần Hậu. Còn riêng làng Ngọc Trung thì chắc chắn là làng có từ sớm nhất và có nhiều gắn bó với làng Trung Lập ngay từ thời Tiền Lê. Những cái tên Lai Duệ Trang, Cốc Trang (làng Phong Cốc), Hoàng Trung Trang (Ngọc Trung), Lê Trang (làng Xá Lê), v.v... càng chứng tỏ gốc rễ lâu đời của các làng này. Trước Cách mạng tháng Tám, ở mỗi làng đều có đền thờ những vị thần hoàng là những người có công trong việc dựng làng, dựng xóm. Ngay việc tìm hiểu lai lịch và gốc tích của gần 60 xứ đồng trong phạm vi của xã bây giờ cũng giúp chúng ta phần nào thấy rõ hơn quá trình khai phá đất đai để mở mang địa bàn cư trú và canh tác của nhân dân Xuân Minh trong suốt bao đời nay.
Đối chiếu trong lịch sử và các tài liệu địa chí của tỉnh nhà, cộng với việc kiểm tra thực địa, chúng ta vẫn chưa biết rõ vùng đất Xuân Minh thời Tiền Lê và Lý thuộc địa bàn của huyện nào, nhưng ở thời Trần Hồ, vùng này thuộc địa bàn của huyện Lương Giang, từ thời Lê cho đến Nguyễn lại thuộc về huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Thiên (tên phủ Thiệu Thiên mãi đến thời vua Minh Mệnh mới đổi tên lại là phủ Thiệu Hoá). Từ đó đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, Xuân Minh đều thuộc về tổng Thử Cốc, huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Hoá. Trong số các tổng của huyện Thuỵ Nguyên thì tổng Thử Cốc là lớn nhất. Tổng này có tất cả 21 làng nằm phân bố trên triền sông Cầu Chày và sông Chu như: Trung Lập, Bất Đạt (hay còn gọi là làng Bương), Ngọc Trung, Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ, Thiên Lộc, Xuân Phỗ, Phong Lai, Thọ Tân, Phong Mỹ (hay còn gọi là làng Mía), Ngọc Quang Thượng, Ngọc Quang Hạ, Cốc Thôn, Cao Phú, Phú Hậu, Long Linh Nội, Long Linh Ngoại và Căng Hạ.
Cách mạng tháng Tám thành công, hệ thống tổng được duy trì trong một thời gian ngắn. Mãi đến sau đợt bầu cử Quốc hội đầu tiên (6-1-1946), để tổ chức bầu cử hội đồng nhân dân các cấp, hệ thống tổng mới bị giải tán và thay thế vào đó là hệ thống xã. Lúc này, toàn bộ các làng của tổng Thử Cốc đều cắt chuyển về huyện Thọ Xuân và được chia ra thành 4 xã là: ái Quốc, Cao Thắng, Thọ Trường và Thọ Phú1
Sang thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thực hiện chủ trương tháp xã của trên, vào đầu năm 1947, xã Minh Nghĩa lại được thành lập trên cơ sở tháp 3 xã cũ là ái Quốc, Cao Thắng và Minh Nghĩa2. Mãi đến năm 1953, sau đợt giảm tô, xã Minh Nghĩa lại được chia nhỏ ra thành 4 xã là Xuân Minh, Xuân Lập, Xuân Lai và Xuân Tân3.
Năm 2018, thực hiện Quyết định 3110/QĐ-UBND ngày 17/8/2018 của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc đổi tên chuyển thôn thành khu phố; sát nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Xã Xuân Minh sát nhập thôn Quang Hoa (164 hộ, 582 nhân khẩu, diện tích 38,51ha) và thôn Thiên Lộc (86 hộ, 295 nhân khẩu, diện tích 17,33ha) để thành lập thôn Hoa Lộc. Các thôn của xã ổn định cho đến nay (2023).
Trong quá trình lịch sử, các làng của xã Xuân Minh lúc thì thuộc về huyện Thiệu Hoá, lúc thì thuộc về huyện Thọ Xuân, nhưng lúc nào cũng cùng đứng bên nhau trong một đơn vị hành chính (huyện, tổng, xã), do vậy mà rất gắn bó mật thiết với nhau. Hơn nữa, do ở vào khu vực địa lý tiếp cận với nhiều huyện, cho nên vốn từ lâu, vùng Xuân Minh càng có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao tiếp, quan hệ thân ái với nhiều địa phương trong, ngoài huyện. Đặc biệt, đối với những xã xung quanh như Xuân Lập, Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Xuân Lai và một số địa phương khác của Yên Định, Thọ Xuân và Thiệu Hoá thì mối quan hệ ấy lại càng gắn bó mật thiết hơn. Chính đó là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để phối hợp và phát triển phong trào cách mạng ở đây ra các vùng xung quanh, mặt khác, trong lúc khó khăn, hoặc lúc địch khủng bố thì có thể kịp thời chi viện và giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau.
Với điều kiện địa bàn và đất đai thuận lợi cho nên tốc độ tập trung cư dân ở xã Xuân Minh mỗi ngày một tăng.
Ở thế kỷ XIV, cả 7 làng chỉ có hơn 200 nóc nhà và gần một ngàn nhân khẩu thì đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã tăng lên 460 hộ và 1.730 nhân khẩu. Cho đến hiện nay, toàn xã có trên một ngàn hộ và trên 5.200 nhân khẩu. Mật độ dân số trung bình là hơn 1.000 người/km2. Đó là con số vào loại cao đối với vùng tiếp nối của trung du và miền núi. Cho nên, từ trước đến nay, ở vùng trung lưu sông Chu và sông Cầu Chày, Xuân Minh vẫn là một trong những trung tâm cư dân của huyện Thiệu Hoá (trước cách mạng) và của huyện Thọ Xuân (sau cách mạng).
Cư dân ở Xuân Minh 100% là người dân tộc Kinh. Vốn từ xưa, đây cũng là vùng có nhiều dòng họ. Có dòng họ đến trước, có dòng họ đến sau, nhưng tất cả đều chung sức, chung lòng để khai phá đất đai và dựng làng, dựng xóm để góp phần làm cho vùng đất Xuân Minh ngày một thêm trù phú và tươi đẹp.
Hiện nay, toàn xã có tất cả hơn 10 dòng họ, trong đó họ Trịnh, họ Đỗ, họ Nguyễn, họ Lê, họ Mai, v.v... là những dòng họ đến sớm và phát triển đông nhất. Mặc dù có nhiều dòng họ và nguồn gốc có khác nhau, nhưng cư dân thì vẫn đông đúc và tập trung hơn. Điều đó chứng tỏ rằng nhân dân ở đây rất đoàn kết. Trong suốt cả quá trình lịch sử, có những lần thiên tai đói kém, có những năm giặc giã hoành hành, nhưng nhân dân Xuân Minh vẫn không bao giờ bỏ làng, bỏ xóm phiêu tán đi nơi khác. Vừa sản xuất, chiến đấu và xây dựng làng xóm là đặc điểm nổi bật của người Xuân Minh. Có thể nói, làng xóm ở đây thực sự như những pháo đài kiên cố, nhưng vẫn sẵn sàng mở cửa để đón nhận những người ở địa phương khác đến để cùng sống hoà thuận bên nhau. Lịch sử hình thành và phát triển của các làng ở đây đã chứng minh điều đó. Trong thời kỳ phong kiến, một số quan lại ở tận những vùng xa như Nghệ An, Hà Tĩnh vì chán ghét và không chịu khuất phục triều đình vua quan thối nát, cho nên đã lần lượt về đây để sinh cơ lập nghiệp mãi mãi (như ở Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, v.v...). Có người vì có công với làng, với xóm, cho nên khi chết đã được nhân dân lập đền thờ.
Quá trình sống bên nhau, tình cảm đoàn kết thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân Xuân Minh được biểu hiện phong phú và vô cùng sinh động trong cuộc sống sản xuất, chiến đấu, cũng như trong sinh hoạt tinh thần.
III. TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở đây vẫn còn giữ được nhiều phong tục, tập quán truyền thống rất tốt đẹp. Đáng chú ý là các tổ chức hội phường, hội phe hình thành một cách tự nhiên từ khá lâu đời. Các hội phường, hội phe này có nhiệm vụ giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất (như cày, bừa, gặt, hái, đào mương, tát nước, v.v...), hay trong cưới xin, ma chay, làm nhà, sinh đẻ, ốm đau, hoạn nạn, v.v... Thành viên của hội phường, hội phe bao gồm tất cả những người đã đến tuổi trưởng thành trong cùng một địa phương, chứ không chỉ bó hẹp trong cùng một dòng họ.
Đó là một điều kiện thuận lợi để đến khi có Đảng lãnh đạo, họ sớm đoàn kết và đứng bên nhau trong các tổ chức cách mạng. Trong thời kỳ bí mật, Đảng ta đã thông qua hình thức này để tuyên truyền, giác ngộ và tập hợp quần chúng đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù đế quốc và phong kiến.
Cho đến hiện nay, ý nghĩa và tinh thần tốt đẹp của các hội phường, hội phe vẫn còn được duy trì và phát huy một cách cao hơn qua những bản qui ước chung của hợp tác xã để nhằm nâng cao tính cộng đồng tập thể, tình tương thân tương ái, tạo ra sức mạnh to lớn trong cuộc sống sản xuất, chiến đấu ở địa phương.
Một vấn đề thật sự có ý nghĩa là sự đoàn kết, cần cù, dũng cảm, thuần phác, cởi mở, hiếu khách và thuỷ chung đã trở thành tính cách và bản chất tốt đẹp của người Xuân Minh. Tính cộng đồng hợp tác và tình tương thân tương ái ấy không bị bó hẹp trong phạm vi một dòng họ, một làng trong xã, hoặc tổng, mà nó còn phát triển rộng ra các vùng khác ở trong, ngoài huyện. Nhân dân Xuân Minh vẫn truyền tụng nhau câu tục ngữ xưa với một cảm nhận thật ý nghĩa và sâu sắc:
Bán anh em xa, mua láng giềng gần, nhưng anh em xa không bán, láng giềng gần vẫn phải mua.
Điều này được thể hiện rõ qua tục kết chạ của các làng ở đây.
Trước Cách mạng tháng Tám, ở Xuân Minh hầu như làng nào cũng có tục kết chạ (như Phong Cốc kết chạ với làng Trung Vũ (Xuân Lập) và làng Phong Lai (Xuân Lai), làng Ngọc Trung kết chạ với làng Bùi Hạ và Ngọc Thạch (Yên Định), làng Xá Lê kết chạ với làng Bao, làng Thượng (Yên Định), làng Phú Tình với làng Ngọc Vực và Phúc Tĩnh (Yên Định), v.v...). Mục đích của việc kết chạ là nhằm tăng cường tình thân ái giữa các làng với nhau, đồng thời để tương trợ giúp đỡ nhau trong việc khó khăn hoạn nạn, hoặc trong sản xuất và bảo vệ mùa màng, v.v...
Có hai loại kết chạ: Chạ chính và chạ giải. Chạ chính là để kết nghĩa và giúp đỡ nhau một cách toàn diện về nhiều mặt trong đời sống, tình cảm, sản xuất, v.v... Còn chạ giải chỉ là để giúp đỡ nhau về một phương diện nào đó như để cùng nhau bảo vệ đồng điền, hoặc khi đi đường không bị phạt vạ, v.v...
Tục kết chạ cũng có những qui định rất chặt chẽ. Hàng năm về mùa xuân, các chạ thường tổ chức mời mọc và thăm hỏi lẫn nhau. Mỗi lần đón tiếp chạ, làng nào cũng tổ chức ăn uống, hát múa và rước hoa rất tưng bừng. Mỗi cuộc hát múa đều phải trải qua các bước: hát chào, hát mừng, hát chúc, hát tiễn, v.v... Đây là những câu hát của chạ Phú Tình với chạ Bùi Thượng và Đa Nấm (Yên Định) trong một ngày hội ngộ:
Chúc mừng quan lão chạ ta
Phơ phơ đầu bạc như hoa trên đầu
Thương nhau chẳng quản nghèo giàu
Khó khăn cùng chịu, ngọt bùi có nhau
Hoặc:
Chạ về chạ nghỉ chạ ngơi
Sang năm chạ lại sang chơi cùng làng.
Cuộc sống cộng đồng, thân ái trong làng, ngoài xã ấy ở đây không chỉ biểu hiện trong đấu tranh chống thiên nhiên, trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt xã hội, v.v... mà còn được biểu hiện cả trong sinh hoạt văn nghệ dân gian một cách vô cùng phong phú và sinh động.
Ở Xuân Minh, ngay từ xưa đã nổi tiếng là một nơi có truyền thống văn nghệ. Hồi thế kỷ X, ở làng Ngọc Trung có ông Phong Xà là người hát hay đàn giỏi ngay từ bé. Khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế thì ông được vời về kinh thành Hoa Lư để phụ trách việc hát múa trong cung điện. Sau đó, để tăng cường mối bang giao với nhà Tống, ông lại được đưa sang phục vụ trong cung đình nhà Tống. Với tài năng và đức độ của mình, Phong Xà đã chiếm được tình cảm của vua Tống nên sau đó đã được vua Tống gả con gái tên là Đào Hoa. ở Trung Quốc được một thời gian, Phong Xà đã cùng vợ trở về Việt Nam để sống bằng nghề ca công của mình tại quê hương. Khi ông chết, đã được nhân dân lập đền thờ và suy tôn là ông tổ nghề ca công. Đền thờ ông chính là đền thờ quốc tế. Hàng năm cứ vào ngày 15/11 âm lịch, tại đền thờ, nhân dân lại tổ chức ngày hội ca công múa hát để tưởng nhớ đến ông. Và ba năm một lần gọi là khoá hàng sứ, tất cả hội ca công múa hát ở khắp các vùng, huyện trong ngoài tỉnh đều về đây để thăm viếng đền thờ và tổ chức ngày hội ca công múa hát rất lớn.
Trước Cách mạng tháng Tám, các làng của Xuân Minh vẫn thường xuyên tổ chức hát bội và hát chèo. Phường bội và phường chèo ở đây không chỉ diễn ở địa phương mà còn diễn rộng ra những vùng khác. Nhưng phổ biến và thường xuyên nhất ở đây vẫn là những cuộc hát ví, hát đúm, hát trống quân và hát huê tình mà chúng ta vẫn gọi là hát ghẹo. Trước đây các phường cấy, phường gặt, phường kéo sợi, dệt vải, phường làm dắng, v.v... ở từng làng vừa làm vừa tổ chức những cuộc hát rất thú vị. Về mùa thu (tháng tám, tháng chín âm lịch), trong những đêm trăng sáng, từ làng này đến làng kia, ở gốc đa, sân đình, ở bờ sông, ngõ xóm... từng tốp nam nữ đứng hát đối đáp nhau cho đến tận đêm khuya. Những cuộc hát như thế này cũng đủ làm cho cuộc sống ở vùng quê Xuân Minh này thêm phần tươi vui và êm ái.
Qua sinh hoạt tinh thần ở đây, chúng ta càng thấy rõ người dân Xuân Minh luôn luôn có một cuộc sống lành mạnh, vui tươi, giản dị và giàu tình cảm lạc quan tin tưởng ở tương lai.
Mặc dù cuộc sống có nhiều gian nan, vất vả, nhưng nhân dân ở đây vẫn có truyền thống rất hiếu học. Trong thời phong kiến, ở các làng của Xuân Minh vẫn có những người học hành đỗ đạt cao, làm rạng danh cho làng, cho xóm như ông Mai Sỹ là người đầu tiên ở đây đậu cống sỹ, sau đó là một gia đình họ Đỗ ở làng Thuần Hậu từ bố đến con đều đỗ đạt trong những kỳ khoa cử, mà rạng rỡ nhất là Đỗ Huy Kỳ, trong một cuộc thi đình đã đậu đến chức thám hoa và được triều đình phong đến chức Hoa nhạc hầu rồi sau đó lại được cử đi sứ sang Trung Quốc; còn bố của Đỗ Huy Kỳ là Đỗ Quang Châu thi đậu khoa thi hương, hai em là Đỗ Huy Lâm và Đỗ Huy Lai cùng đậu một khoá thi hội. Tiếp đó là gia đình ông Mai Thanh, cũng có nhiều con đỗ đạt khá. Ngoài ra, ở các làng còn có nhiều người đậu đến tú tài, nhưng kiến thức lại rất rộng như các ông Mai Thế Quý, Mai Xuân Tình, Nguyễn Xuân Tường, v.v... Đó là chưa kể đến hàng loạt gia đình tuy nghèo khó nhưng vẫn quyết chí nuôi con cho thành đạt trong đường học hành và văn nghiệp.
Truyền thống hiếu học của nhân dân Xuân Minh không phải chỉ có từ thời trước mà cho đến những năm sau Cách mạng và đặc biệt là bây giờ thì truyền thống ấy lại được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Và chính truyền thống ấy đã chắp cánh cho Xuân Minh bay nhanh, bay xa trên mỗi chặng đường lịch sử và cách mạng.
IV. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN XUẤT MINH TRƯỚC NĂM 1930
Vùng đất Xuân Minh thật đáng yêu và biết mấy tự hào là thế, nhưng sống dưới chế độ cũ, nhân dân lại bị chìm đắm trong sự áp bức, bóc lột tàn bạo của bọn đế quốc thực dân và phong kiến tay sai.
Về chính trị, thực dân Pháp đã xây dựng một bộ máy cai trị rất chặt chẽ từ trên xuống dưới nhằm thâu tóm quyền lực vào tay mình, đồng thời duy trì chế độ phong kiến, tạo ra bộ máy bù nhìn tay sai để làm chỗ dựa cho chính sách độ hộ và khai thác thuộc địa của chúng. Chính quyền phong kiến địa phương từ phủ, huyện, tổng cho đến làng được củng cố không ngừng cùng với sự ra đời ngày một nhiều của tầng lớp địa chủ mới là công cụ lợi hại trong việc áp bức, bóc lột nhân dân.
Riêng huyện Thiệu Hoá là huyện kiêm lý của phủ thì bộ máy cai trị lại càng được thực dân Pháp chú ý tăng cường hơn.
Trong số các tổng của huyện, tổng Thử Cốc là lớn nhất. ở tổng có chánh, phó tổng, ở làng có lý trưởng và cả hội đồng kỳ mục gồm hương kiểm, hương mục, hương bản, hương bạ1, v.v... ở những làng lớn còn có thêm cả chức phó lý để giúp việc lý trưởng, đến khi phong trào cách mạng phát triển thì chúng còn đặt thêm các chức xã đoàn, kiểm thú, tuần chấp, hương nông, hương binh và đại hào mục. Đó là chưa kể đến cả một hệ thống tuần phiên và điếm canh chi chít nhằm khống chế, kiểm soát việc đi lại của nhân dân. Đối với tổng Thử Cốc nói chung và các làng của Xuân Minh nói riêng là nơi có phong trào cách mạng rất mạnh, cho nên năm 1941, thực dân Pháp còn điều một lực lượng binh lính tinh nhuệ về đóng đồn tại làng Phong Cốc nhằm dập tắt ngọn lửa cách mạng ở vùng này, đồng thời để khống chế phong trào cách mạng của cả ba huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá và Yên Định. Không những thế, tại các làng, chúng còn sử dụng và mua chuộc các phần tử thuộc tầng lớp trên làm mật thám, tay sai để rình bắt cán bộ cách mạng.
Sự cấu kết giữa đế quốc và phong kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa, điều đó thể hiện rất rõ ở Xuân Minh. Thông qua tầng lớp tay sai ở địa phương, thực dân Pháp đã dùng rất nhiều thủ đoạn hiểm độc để gây chia rẽ hằn thù trong nhân dân (giữa làng này với làng kia, giữa dòng họ lớn với dòng họ bé, giữa người chính gốc với người ngụ cư, v.v...) hòng phá vỡ khối đoàn kết ở trong làng và trong tổng, thậm chí sự chia rẽ ấy còn bị chúng khoét sâu ra cả phạm vi huyện khác. Không những thế, chúng còn đề cao sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa kẻ giàu với người nghèo, giữa người có học và không có học, giữa các làng văn, làng võ, làng giáp, làng hộ với nhau, v.v... đồng thời khuyến khích các tập tục phong kiến lạc hậu (lên nhiêu, lên lão, tranh ngôi, bán thứ, phạt vạ, cúng tế, đình đám, hội hè, ma chay, đồng bóng, v.v...) để mọi người sao nhãng việc sản xuất và quên chống đối lại chúng. Thâm độc và xảo quyệt hơn, thực dân Pháp còn tìm cách thâm nhập và phát triển tôn giáo vào các làng của Xuân Minh để ru ngủ mọi người, đồng thời để reo rắc trong nhân dân tư tưởng cầu an, định phận, cái gì cũng phó thác cho số mệnh. ở đây, làng nào chúng cũng cho xây dựng nhiều đền chùa, miếu mạo. Đặc biệt năm 1935, chúng còn tìm cách phát triển đạo thiên chúa giáo và xây dựng nhà thờ ở đây, nhưng do sự phản ứng và đấu tranh của nhân dân, cho nên âm mưu đã bị thất bại.
Về kinh tế, ngay từ khi mới đặt chân đến tỉnh ta, thực dân Pháp đã cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến để thực hiện những chính sách kinh tế hết sức hà khắc và phản động.
Ở Xuân Minh cũng như các vùng quê khác, thực dân Pháp đã mặc nhiên để cho giai cấp địa chủ phong kiến tìm cách chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.
Theo địa bạ cũ, tổng số ruộng đất trong 7 làng của Xuân Minh có tất cả là 760 mẫu. Nhưng trong số đó thì giai cấp địa chủ, phú nông đã chiếm mất 70%. Ruộng công điền công thổ chiếm gần 10% (64 mẫu), còn nông dân chỉ có hơn 20%. Có thể nói, địa chủ, phú nông ở Xuân Minh chiếm hữu ruộng đất tuy không nhiều so với địa chủ, phú nông ở các nơi khác, nhưng số lượng lại nhiều, cho nên tỷ lệ chiếm hữu như vậy là rất cao. Số nông dân không có ruộng đất phải đi làm thuê, cuốc mướn cho địa chủ khá đông. Ruộng đất mầu mỡ và gần làng hầu hết là của địa chủ, phú nông, còn những nơi xa, cằn cỗi và khó làm đều là của nông dân. Với tình hình ruộng đất như vậy cũng đủ để cho chúng ta thấy rõ sự phân hoá giai cấp ở đây sâu sắc đến mức độ nào.
Với số ruộng đất ít ỏi như vậy, nhưng nhân dân Xuân Minh lại còn bị bòn rút kinh người bởi chính sách thu mua nông sản (lúa, bông, lạc) rất rẻ mạt của thực dân Pháp. Không những thế, nhân dân ở đây còn phải chịu biết bao gánh nặng về thuế má, về phu phen tạp dịch, v.v...
Về thuế má, trước hết phải kể đến thuế thân (hay còn gọi là sưu) là một thứ thuế vô lý và tàn bạo nhất mà thực dân Pháp đã cho thi hành ngay từ thời kỳ đầu mới xâm lược để đánh vào đầu người từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt giàu nghèo, đã làm cho nhân dân Xuân Minh vô cùng điêu đứng và khổ sở. Lúc đầu, thực dân Pháp cũng chia thuế thân thành một số loại cao thấp khác nhau, nhưng đến năm 1921, chúng lại đưa nhất loạt thuế thân ở mức 2đ,50 (theo Nghị định ra ngày 29-12-1920). Như vậy, thực chất chỉ có quyền lợi của tầng lớp trên là được bảo vệ, còn nông dân mặc dù không có, hoặc có ít ruộng đất cũng vẫn nai lưng chịu một suất thuế ngang với bọn nhà giầu nhiều ruộng đất. Lúc đó, một đồng bạc Đông Dương giá trị bằng một tạ thóc. Ngoài suất thuế thân đã qui định, những người mang thẻ1 còn phải nộp thêm cả khoản thuế ngoại phụ và thuế chi thu hàng xã. Thành ra, cộng thêm với những khoản này thì mỗi suất thuế thực chất phải nộp lên đến 3đ,20 hoặc 3đ,50. Năm 1935, do đấu tranh của nhân dân, thực dân Pháp đã giảm 10% thuế thân, nhưng lại tăng 15% thuế ngoại phụ, cho nên thực tế cũng không giảm được bao nhiêu. Đó là chưa kể đến khoản chi thu hàng xã do Lý hương tự ý định ra để đút túi, lòng tham của chúng càng nhiều bao nhiêu thì dân tình càng khổ bấy nhiêu. Năm 1939, do nhu cầu chiến tranh, thực dân Pháp lại tăng thuế bằng cách đặt thành 14 hạng, hạng thấp nhất là 1đ, mười hai hạng trên mức 2đ,50 và hạng cao nhất là 15 đồng (ở Xuân Minh loại này không có).
Ngoài thuế thân ra, nhân dân Xuân Minh còn phải đóng góp nhiều khoản thuế vô lý khác như thuế ruộng (thuế điền), thuế nhà (thuế thổ trạch), thuế chợ, thuế trâu bò, thuế dệt vải cùng nhiều loại đảm phụ, công trái, lạc quyên, v.v... Chỉ tính riêng về thuế dệt vải thì mỗi khung cửi đã phải nộp một năm 3 đồng, còn một sa kéo sợi cũng phải nộp 2đ,50. Còn về thuế ruộng thì chúng phân ra ba loại nhất, nhị, tam đằng điển để định mức thuế, nhưng mỗi mẫu cũng phải nộp tương đương với một suất sưu (từ 2 đến 3 đồng). Từ năm 1932 trở về trước, thuế ruộng nạp chỉ căn cứ vào địa bạ cũ, nhưng từ đó về sau, để đảm bảo chắc chắn quyền sở hữu mảnh ruộng đó, nhân dân Xuân Minh lại phải mua 0đ,25 một trích lục cho mỗi thửa ruộng.
Một điều rất tai hại cho nông dân là sưu thuế đều thu bằng bạc Đông Dương, cho nên cứ mỗi đợt sưu thuế, đồng bạc cũng biến thành một thứ hàng hoá lên xuống rất nhanh. Lúc bình thường, mỗi đồng bạc Đông Dương đổi được 5 quan tiền, đến lúc nộp sưu thế lại tăng lên 8 quan, trong khi đó giá lúa lại rất hạ (từ 4-5 quan tiền chỉ mua được một gánh lúa). Do đó, bọn địa chủ và nhà giàu lại nhân cơ hội này tung tiền ra đầu cơ tích trữ lúa và buôn bán tiền, làm cho đời sống nông dân càng khánh kiệt lớn.
Năm nay qua năm khác, chế độ thuế nghiệt ngã đã trở thành mối đe doạ khủng khiếp và thường xuyên đối với người dân Xuân Minh. Rất nhiều người đã khổ sở điêu linh và bị hành hạ đủ đường bởi không có tiền nạp thuế; ruộng đất và tài sản trong gia đình có thể bị bọn chức dịch tịch thu, hoặc phải đem ra bán với một giá rẻ mạt, thậm chí có người còn bị đánh đập và bị bắt giam.
Khi Pháp đầu hàng Nhật, cũng như các địa phương khác, nhân dân ở đây còn phải chịu tình cảnh một cổ, hai tròng áp bức, và gánh nặng về thuế má lại càng khủng khiếp hơn.
Bên cạnh gánh nặng về thuế má, nhân dân Xuân Minh còn bị tra tấn bởi chế độ phu phen, tạp dịch hết sức hà khắc và nặng nề. Đó là một điển hình về lối bóc lột không công của thực dân Pháp. Những người đến tuổi mang thẻ thân, mỗi năm phải đi phu hai lần (mỗi lần từ 10-15 ngày). Họ phải làm việc cực nhọc, vất vả suốt ngày dưới trời mưa nắng và giá rét, tiền gạo, thức ăn phải tự túc hết, đã thế lại còn bị chửi mắng và roi vọt như trâu ngựa. Khi anh em phu ở trong huyện và tỉnh đấu tranh mạnh thì thực dân Pháp lại đặt ra chế độ làm khoán rất hà khắc. Cho nên, cứ sau mỗi đợt phu, mọi người đều kiệt sức. ở Xuân Minh, chỉ có gia đình bọn chức dịch, địa chủ và nhà giàu có tiền của để đút lót bọn tổng, lý là không phải đi phu, còn tuyệt đại bộ phận dân nghèo thì cứ phải nai lưng ra mà làm. Tình cảnh đó thật bi thương và cay đắng.
Chế độ cho vay lãi cũng là mối tai hoạ lớn đối với dân nghèo Xuân Minh. ở đây, bọn kỳ hào chức dịch và địa chủ làm giàu bằng cách cho dân nghèo vay tiền, vay thóc với tỷ lệ lãi cắt cổ.
Có ba hình thức cho vay nặng lãi: vay tiền phải trả lãi bằng thóc (gọi là chế độ mua thóc non), và một loại cho vay thóc trả thóc (gọi là chế độ thả thóc thu thóc) thì với số lãi một thành hai. Riêng về chế độ thả tiền thu thóc thì có hai loại:
- Một loại phải hoàn luôn cả vốn lần lãi thì phải chịu số tiền là 100%. Ví dụ vay 1 đồng thì phải trả là 2 tạ thóc, nếu không trả được thì sang vụ sang năm phải trả thành 4 tạ.
- Một loại chưa phải hoàn ngay vốn với mức lãi là 50%. Ví dụ vay 1 đồng thì số lãi phải trả là 50 kg thóc, nếu không trả được thì trong vụ tới phải chịu gấp đôi và cộng với số lãi mới, đó là chưa kể đến 1 đồng vẫn còn phải nợ.
Với hình thức cho vay nặng lãi này mà bọn chức dịch, địa chủ, nhà giàu mỗi ngày một giàu có hơn, còn dân nghèo Xuân Minh thì mỗi ngày một thêm điêu đứng, sống dở chết dở. Năm này qua năm khác, lãi mẹ đẻ lãi con và cứ thế chồng chất mãi lên cuộc đời của họ. Nhiều gia đình vì chỉ lo một suất sưu, hoặc lo một đám ma, đám cưới, v.v... phải đi vay nợ mà lâm vào cảnh bán ruộng, bán vườn, bán con, bán tài sản để đi làm thuê cuốc mướn, hoặc phải rời làng đi tha phương cầu thực, hay vào làm ở các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy của đế quốc để kiếm một đồng lương rẻ mạt, sống lần hồi cho qua ngày. Một số người ra đi mà không có ngày trở lại. Trước Cách mạng tháng Tám, toàn xã có 75 gia đình phải bán ruộng (67 mẫu), 38 gia đình phải bán con và 149 người phải rời làng ra đi để kiếm kế sinh nhai, nhưng chỉ có 6 người trở về và 52 người bị mất tích.
Nói chung, chính sách kinh tế phản động của thực dân Pháp đã làm cho đời sống của nhân dân Xuân Minh bị bần cùng và điêu đứng cao độ. Hàng năm, người dân ở đây chỉ lo các khoản đóng góp cho bọn đế quốc và phong kiến tay sai cũng đủ khốn khổ thì còn nói gì đến chuyện đủ ăn. Cái cảnh gác hái thì treo niêu diễn ra thật thương tâm đối với mọi gia đình. Hầu hết số người trong làng đều phải đi cấy rẽ, làm thuê, lấy củi, đốt than, làm dắng, v.v... mang ra chợ bán để lần hồi sống cho qua bữa. Số người đi làm công nhân thời vụ ở các đồn điền Phúc Địa, Vạn Lại, Bát Soạn và một số nhà máy, hầm mỏ ở những nơi xa khác cũng khá đông. Riêng ở các đồn điền, công việc rất nặng nhọc và vất vả, nhưng tiền công lại quá rẻ mạt. Bọn chủ đồn điền chi trả cho đàn ông mỗi ngày trên dưới 20 xu, đàn bà dưới 15 xu, còn trẻ em thì chỉ được trả từ 5 đến 10 xu, đã thế tiền công còn có thể bị cúp phạt nếu để xảy ra điều gì sai sót. Với tình cảnh và điều kiện sống như vậy, cho nên nhân dân Xuân Minh ngay từ đầu đã có nhiều quan hệ gắn bó với giai cấp vô sản ở trong tỉnh.
Thuế má, phu phen, cho vay cắt cổ và bòn rút tận xương chưa đủ, thực dân Pháp còn dở những ngón đòn hết sức tàn bạo và trắng trợn. Năm 1941, khi đưa lính về đóng đồn ở Xuân Minh, chúng đã mặc sức đốt phá và cướp đoạt tài sản của nhân dân. Chúng bắt nhân dân, nhất là những gia đình có người thoát ly hoạt động cách mạng phải nộp lương thực, trâu bò, lợn, gà... để mời binh lính của chúng ăn uống hết ngày này qua ngày khác thật cơ cực. Thời kỳ Nhật đảo chính Pháp, chúng còn bắt nhân dân nhổ lúa để trồng bông và thực hiện chính sách thu mua cưỡng bức rất phát xít, cho nên đã dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng là nạn đói khủng khiếp của năm 1945 diễn ra chưa từng thấy, làm cho quần chúng nông dân vô cùng điêu đứng.
Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 1918) và đại chiến thế giới lần thứ 2 (1939-1945), thực dân Pháp còn bắt ép nhân dân Xuân Minh đi lính để làm bia đỡ đạn cho chúng. Trong cả hai đợt chiến tranh, toàn xã có hơn 20 người bị bắt ép đi lính, phần lớn đều đã bỏ mạng ở nơi đất khách quê người.
Dưới chế độ thống trị của đế quốc, phong kiến, nhân dân Xuân Minh không chỉ khổ sở về vật chất, đau đớn về thể xác, mà còn bị thiếu thốn và đe doạ về tinh thần. ở đây nhân phẩm con người bị chà đạp, quyền tự do tối thiểu cũng bị ngăn cấm. Tuy vậy, trong xã hội, đặc biệt thương tâm vẫn là người phụ nữ. Đó là một tầng lớp bị đoạ đầy, đau khổ và bị khinh rẻ nhất. Họ không có quyền làm người, sự bình đẳng với nam giới là điều không hề có. Trong cả cuộc đời, họ chỉ chịu toàn những cảnh đắng cay, khổ nhục. Cho nên, dưới chế độ đế quốc, phong kiến, không phải riêng Xuân Minh, mà trong toàn quốc, vấn đề giải phóng phụ nữ vẫn là một điều cấp thiết.
Về văn hoá xã hội, thực dân Pháp đã thi hành nhiều chính sách thâm độc, quỷ quyệt, nhằm giam cầm nhân dân trong ngục tối. Chính sự khai hoá văn minh của chúng đã làm cho 95% dân số ở Xuân Minh bị mù chữ. Trong thời kỳ thuộc Pháp, cả tổng Thử Cốc mới có một trường sơ học, còn ở huyện mới có một trường tiểu học. Mãi đến năm 1932, chúng mới đồng ý cho mở một trường dạy chữ quốc ngữ (mà lúc đó vẫn gọi là hương trường) ở làng Xá Lê với một thày giáo và 32 học sinh. Trường học ở đây chủ yếu là giành cho con em bọn chức dịch, hoặc những nhà quyền thế và giàu có, còn tuyệt đại bộ phận con em nhân dân lao động vì quá nghèo túng mà phải thất học. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cả xã Xuân Minh chỉ có 75 người biết chữ quốc ngữ, trong đó có 11 người đạt trình độ sơ học yếu lược, 6 người đậu Prime và 4 người trên trình độ Prime. Một số gia đình giàu có thì đón thầy về dạy chữ Hán cho con cái cốt để lo việc cúng bái tổ tiên cho đúng phép.
Ở Xuân Minh, sự khai hoá văn minh của thực dân Pháp còn làm cho tính mạng con người luôn luôn bị đe doạ. Có tổng không có nổi một y tá hoặc một bà đỡ. Nhân dân ốm đau không hề biết thuốc men là gì, tất cả chỉ tin vào việc bói toán, lễ bái và uống tàn hương nước lã. Hàng loạt gia đình đã phải mất đi những người thân yêu nhất. Có lần dịch tả, chỉ trong một ngày, làng Ngọc Trung đã có hơn 20 người bị chết. Do tình trạng đói kém, khổ cực và ăn ở lại mất vệ sinh, cho nên nạn hữu sinh vô dưỡng đã diễn ra một cách phổ biến. Có nhiều người đẻ tới năm, bảy lần mà không nuôi được đứa con nào. Tình trạng bệnh tật, ốm đau và thiếu dinh dưỡng đó đã được phản ánh đầy đủ qua câu ca bi thảm ở làng Phú Tình:
Phú Tình ơi hỡi Phú Tình
Cái bụng đi trước, cái mình đi sau!
Phải nói rằng, sự đè nén áp bức, bóc lột của bọn đế quốc và phong kiến tay sai là nguyên nhân chủ yếu làm cho bộ mặt làng xóm của xã Xuân Minh trước Cách mạng tháng Tám trở nên rất tiêu điều và sơ xác. ở đây hầu hết là những nhà tranh thấp bé và lụp sụp, còn một số nhà ngói sân gạch mọc lên là của bọn chức dịch, địa chủ.
Là một vùng trồng bông và có nghề dệt vải mà nhân dân Xuân Minh lại không có đủ chăn, màn và quần áo. Ngày sương gió rét, phải nằm ổ rơm. Cuộc đời cơ cực không sao kể hết. Đã thế, thực dân Pháp lại còn khuyến khích nạn rượu chè, cờ bạc để đầu độc mọi người. Một mặt cấm nhân dân nấu rượu, nhưng chúng lại bắt mọi người phải tiêu thụ rượu cồn của chính quốc. Nạn rượu chè, cờ bạc sản phẩm của chế độ thực dân, phong kiến cũng là nguyên nhân gây ra sự đau khổ và ly tán cho nhiều gia đình, có người vì lâm vào chuyện này mà phải bán vợ, đợ con, hoặc đi biệt sứ, v.v...
Nói tóm lại, sự bóc lột của đế quốc, phong kiến ở Xuân Minh đã làm cho các tầng lớp dân nghèo ngày càng nghèo khổ, còn những kẻ làm tay sai cho đế quốc thì mỗi ngày một giàu có hơn. Do đó, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc quyện chặt với nhau. Trong đó, mâu thuẫn dân tộc ngày càng nổi bật lên. Chính vì thế mà nhân dân Xuân Minh đã sớm nhận thức được rằng đối với mỗi dân tộc, mất nước là mất tất cả.
Chính sự thống trị, áp bức, bóc lột và sự khinh miệt dân tộc ấy của bọn đế quốc và phong kiến tay sai đã gây nên lòng căm thù sâu sắc trong nhân dân. Sức mạnh căm thù, đó là nguồn gốc của sự nổi dậy của phong trào nhân dân chống lại bọn cướp nước và bọn bán nước, đồng thời đó cũng là một điều kiện thuận lợi để Đảng bộ tỉnh ta sớm chọn nơi đây làm một trong những nơi đứng chân quan trọng trong suốt thời kỳ hoạt động bí mật (1930-1945).
Trong suốt cả quá trình đấu tranh chống đế quốc xâm lược và bè lũ phong kiến tay sai, bằng sự giác ngộ về ý thức dân tộc, giai cấp, bằng lòng quả cảm kiên cường và sự quật khởi vùng lên, nhân dân Xuân Minh đã liên tục viết lên những trang sử vàng hết sức vẻ vang, chói lọi.
Ngay từ những ngày đầu tiên, khi thực dân Pháp mới đặt chân lên đất nước ta, nhân dân Xuân Minh đã đứng lên góp sức mình vào phong trào yêu nước hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Năm 1885, nghe theo chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, Đỗ Tri Phương một văn thân yêu nước ở làng Thuần Hậu đã dựng cờ tập hợp lực lượng nhân dân ở các làng của xã Xuân Minh và các vùng xung quanh để chuẩn bị mọi điều kiện tham gia vào phong trào chống Pháp xâm lược của nhân dân tỉnh ta lúc đó.
Đỗ Tri Phương được các nhà lãnh đạo văn thân Thanh Hoá phong chức quản chương và nhận trách nhiệm chiêu mộ nghĩa quân từ làng Hoành, làng Giành ngược lên Hữu Bái, Đa Nê, Cự Nẫm (Yên Định) và phía bên này là từ Quần Tín, Tam Lộng trở lên đến Quần Kênh, Xuân Hưng, Xuân Thắng, Xuân Phú (Thọ Xuân), rồi từ Phố Cống (Ngọc Lặc) lại kéo về đến Thọ Xương, Đầm, Lược, Yên Lãng (Thọ Xuân) và toàn bộ tổng Thử Cốc (Thiệu Hoá).
Làng Thuần Hậu trở thành một căn cứ tập kết lực lượng của nghĩa quân. Tất cả các thợ rèn lành nghề ở nhiều địa phương đều được huy động về đây để rèn sắm vũ khí. Vườn Trũng thực sự như là một công xưởng lớn sản xuất vũ khí của nghĩa quân. Gần 300 người được phân công chuyên trách chỉ có nhiệm vụ này. ở đây còn có cả một bể chứa nước lớn có thể chứa được hàng mấy trăm gánh nước, đủ phục vụ ăn uống cho hàng ngàn người.
Đỗ Huy Ven (con của Đỗ Tri Phương) được giao chức Chánh lĩnh binh, cùng với người em vợ là Mai Chưng (thường gọi là Cai Tô) và Đỗ Tánh (Xá Lê) chuyên trách việc huấn luyện nghĩa quân. Các ông Đội Thiệu, Điển Lô (Phong Cốc), Lê Văn Giản (Phú Tình), Trịnh Văn Lê, Trịnh Văn Thấu, Trịnh Văn Khoan... (Ngọc Trung), v.v... ngoài việc tập hợp lực lượng nghĩa quân ở trong làng, còn có trách nhiệm huy động nhân dân tiếp tế hậu cần và lương thực.
Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, con số nghĩa quân đã lên đến trên một ngàn người. Đến giữa năm 1886, thực hiện quyết định của hội nghị các nhà lãnh đạo sĩ phu, văn thân yêu nước của tỉnh Thanh Hoá ở Bồng Trung (Vĩnh Lộc), một bộ phận nghĩa quân ở đây được lệnh kéo xuống xây dựng và chiến đấu bảo vệ cứ điểm Ba Đình (Nga Sơn) một căn cứ quan trọng do Phạm Bành và Đinh Công Tráng chỉ huy. Còn bộ phận ở lại có trách nhiệm huy động thêm lực lượng ở đây và các vùng xung quanh để sang phối hợp với Hà Văn Mao xây dựng hệ thống cứ điểm phòng ngự Mã Cao (ở phía tây và tây bắc của huyện Thọ Xuân và Yên Định).
Trong những ngày ở Ba Đình, các nghĩa quân của Xuân Minh cùng các chiến sỹ Cần vương ở đó đã nêu cao khí tiết kiên cường, bất khuất và chiến đấu rất anh dũng, làm cho chính kẻ thù là thực dân Pháp cũng phải ngạc nhiên và kính phục. Sau những lần giáng trả cho thực dân Pháp những đòn chí tử, toàn bộ nghĩa quân Ba Đình đã mở một đường máu để phá vòng vây rút lên căn cứ Mã Cao, củng cố lại lực lượng để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.
Từ đó, khu vực Xuân Minh và tổng Thử Cốc đã trở thành một căn cứ hậu phương rất lợi hại cho nghĩa quân ở căn cứ Mã Cao. Chính vì vậy mà sau khi tập trung một binh lực khá lớn để tấn công Mã Cao hòng cứu vãn nền thuộc địa... đang bị đe doạ nghiêm trọng, thực dân Pháp đã chiếm nghè Phú Tình Cầu Vàng để đóng đồn nhằm khống chế và cắt đứt sự tiếp tế của căn cứ hậu phương này đối với nghĩa quân. Hàng ngày, từ đồng Quả Bạc (giáp sông Cầu Chày), bọn chúng đã liên tiếp bắn phá vào các làng Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, v.v... để uy hiếp. ở đây, cũng đã diễn ra nhiều cuộc chiến đấu chống trả lại của nhân dân Xuân Minh, làm cho chúng không thể nào tiến được vào làng. Sau đó, thực dân Pháp đã tập trung một binh lực lớn với quyết tâm tiêu diệt bằng được căn cứ hậu cần quan trọng này. Toàn bộ làng trại Ông Tăng (Thuần Hậu) đã bị triệt hạ và đốt phá hoàn toàn. 12 nghĩa quân ở làng Phong Cốc bị địch bắt mang về chôn sống tại Cầu Vàng.
Trong khi đó, cuộc chiến đấu của nghĩa quân ở hệ thống cứ điểm Mã Cao vẫn tiếp tục diễn ra rất quyết liệt. Mặc dù gây cho địch nhiều thiệt hại nghiêm trọng, nhưng do tương quan lực lượng và vũ khí không cân sức, ban lãnh đạo nghĩa quân đã quyết định cho toàn bộ lực lượng vừa chiến đấu vừa lần lượt rút khỏi hệ thống cứ điểm Mã Cao để tiếp tục hoạt động ở miền tây Thanh Hoá.
Như vậy, với bối cảnh chung của phong trào chống Pháp xâm lược trong cả nước (hồi cuối thế kỷ XIX), phong trào vũ trang của nhân dân Xuân Minh nói riêng và Thanh Hoá nói chung mặc dù bị thất bại, nhưng vẫn được ghi nhận hùng hồn về truyền thống yêu nước, đoàn kết và kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm trong lịch sử.
Sau khi phong trào Cần Vương bị dập tắt thì vào những năm đầu của thế kỷ XX, các phong trào yêu nước mang tính chất dân chủ tư sản đã xuất hiện và dần dần ảnh hưởng đến tỉnh ta, trong đó có Xuân Minh. Nhưng nhìn chung, sự tác động của những ảnh hưởng đó chỉ làm cho phong trào nhân dân ở tỉnh ta phát triển một cách rời rạc, lẻ tẻ nên cuối cùng vẫn đi vào trình trạng bế tắc và thất bại. Tuy vậy, những phong trào đó vẫn là những tiền đề thuận lợi cho thời kỳ cách mạng mới bắt đầu từ sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Và những trang sử vẻ vang, chói lọi của Xuân Minh cũng thực sự bắt từ đó.
CHƯƠNG 2
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH TỪ NĂM 1930 ĐẾN 9/1945
I. SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÂN VIỆT CÁCH MẠNG ĐẢNG MỘT TỔ CHỨC TIỀN THÂN CỦA ĐẢNG TẠI XUÂN MINH (1925-1929)
Từ năm 1925-1926, giữa lúc phong trào yêu nước đang diễn ra sôi nổi với hai cuộc vận động đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh, rồi sau đó lại chìm đi vì sự bế tắc về đường lối thì ở tỉnh ta, qua đường dây liên lạc với các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, ánh sáng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917) và đường lối cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc đã dần dần được truyền đến làm thay đổi hẳn nội dung, cục diện phong trào. Trên cơ sở đó mà các tổ chức tiền thân của Đảng bộ Thanh Hoá lần lượt ra đời như Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và Tân Việt cách mạng Đảng1.
Trong bối cảnh lịch sử chung của tỉnh nhà, tại Xuân Minh vùng giáp gianh và gạch nối của ba phủ huyện lớn như Thọ Xuân, Thiệu hoá, Yên Định; những luồng tư tưởng cách mạng mới cũng có điều kiện thuận lợi để thâm nhập và ảnh hưởng một cách nhanh chóng. Chính ở đây, hai thanh niên yêu nước đầu tiên sớm được tiếp thu, bồi dưỡng chủ nghĩa mác Lê Nin về đường lối cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc là hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ.
Cùng sinh ra và lớn lên vào những năm đầu của thế kỷ XX1, ở làng Phong Cốc, tổng Thử Cốc (Thiệu Hoá) trong hai gia đình nhà nho yêu nước, mà bố và mẹ đều có tham gia phong trào Cần Vương trước đó, cho nên cả hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã sớm được bồi dưỡng, giáo dục tinh thần yêu nước và lòng căm thù thực dân Pháp xâm lược.
Sau khi học xong ở trường tổng, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đều lần lượt sang học ở trường Pháp Việt của phủ Thọ Xuân. Tại đây trong những năm học tập, hai đồng chí đã được tiếp xúc với nhiều sách báo tiến bộ và được gặp gỡ những người yêu nước của phủ Thọ Xuân. Đến cuối năm 1925, qua sự giới thiệu của thầy giáo Nguyễn Tam Khôi, đồng chí Nguyễn Văn Hồ và Nguyễn Xuân Thuý lại được tiếp xúc, gặp gỡ với một số nhà yêu nước có tên tuổi của tỉnh ta khi đó, và được nghe kể về nước Nga, về tình hình trong nước, ngoài nước, v.v... Cho nên, cũng bắt đầu từ đó mà hai đồng chí đều rất tâm huyết và có chí hướng làm cách mạng để đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược.
Tháng 4-1927, sau một thời gian được rèn luyện, thử thách, hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã vinh dự được kết nạp vào tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng của tỉnh nhà tại làng Ngô (Thiệu Hoá). Đó là hai thanh niên học sinh trẻ đầu tiên của tổng Thử Cốc được kết nạp vào tổ chức này2. Sau đó, đến tháng 5-1927 hai đồng chí lại được Đảng bộ Tân Việt Thanh Hoá cử vào Vinh dự lớp huấn luyện do tổng bộ Tân Việt mở trong thời gian 5 tháng để học tập đường lối và lý luận cách mạng.
Tháng 10-1927, từ lớp huấn luyện trở về Thanh Hoá, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ được Đảng bộ Tân Việt tỉnh giao nhiệm vụ về các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định tuyên truyền, giác ngộ đường lối cách mạng và phát triển đảng viên mới. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của Tân Việt cách mạng Đảng đã được xây dựng nhanh chóng ở các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung, rồi lan sang các làng Phong Lai, Yên Lãng, Phúc Bồi... (Thọ Xuân) và Phúc Tĩnh (Yên Định), v.v... Riêng ở Xuân Minh, tính đến giữa năm 1928, cơ sở Tân Việt đã được hình thành với 7 đảng viên mà tất cả đều thuộc về tầng lớp thanh niên trẻ giàu lòng yêu nước1.
Mùa hè năm 1928, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ lại tiếp tục được đi dự lớp huấn luyện do tỉnh bộ Tân Việt mở tại Lò Chum (thị xã Thanh Hoá) trong thời gian 3 tháng. Sau lớp huấn luyện này, cả hai đồng chí đều được bổ sung vào ban chấp hành Tỉnh bộ Tân Việt.
Đến cuối năm 1928, sau khi đã kết nạp được thêm nhiều đảng viên trẻ và có mối quan hệ ngày càng mật thiết với tổ chức Thanh niên, đảng bộ Tân Việt Thanh Hoá đã tổ chức một cuộc hội nghị đại biểu tại Lò Chum, thị xã để đề ra phương hướng bồi dưỡng, huấn luyện đảng viên theo đường lối chủ nghĩa Mác Lê nin và kiện toàn lại ban chấp hành tỉnh bộ. Đây là bước tiến mới của tổ chức Tân Việt Thanh Hoá. Trong hội nghị này, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã vinh dự được cử chức Bí thư và đồng chí Nguyễn Văn Hồ được cử chức Uỷ viên thường trực của tỉnh bộ Tân Việt2. Từ đó, tổ chức Tân Việt Thanh Hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, tầng lớp đảng viên trẻ thì chuyển biến tích cực theo lập trường của chủ nghĩa Mác Lê nin và theo đường lối của đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Ở Xuân Minh, vào đầu tháng 2-1929, cơ sở Tân Việt của các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung và Xá Lê đã tổ chức một cuộc hội nghị tại nhà đồng chí Trịnh Huy Phan (Ngọc Trung) đã vạch ra phương hướng hoạt động mới với những nội dung chủ yếu như sau:
- Tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê nin và kết nạp thêm đảng viên mới ở các làng trong và ngoài khu vực.
- Vận động nhân dân đấu tranh chống đồi phong bài tục, hạn chế sự bóc lột của đế quốc và tay sai.
- Vận động học chữ quốc ngữ và xây dựng quĩ cho tổ chức, v.v...
Thực hiện nội dung của hội nghị này, các đảng viên Tân Việt đã tích cực đi sâu vào quần chúng để tuyên truyền, vận động mọi người học chữ quốc ngữ, đọc sách báo tiến bộ, bài trừ hàng ngoại hoá để dùng hàng nội hoá, đến cả việc cắt tóc ngắn, v.v... nhưng chủ yếu hơn cả là việc vận động quần chúng đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống, hoặc trong những lúc khó khăn hoạn nạn. Đặc biệt, về mặt đấu tranh đã đi dần từ tự phát đến tự giác và ngày càng có phương pháp hơn. ở làng Phong Cốc, với sự tổ chức và vận động của các đảng viên Tân Việt, 12 nông dân đã làm chung một đơn kiện tố cáo bọn địa chủ và chức dịch chiếm hữu ruộng đất công điền, công thổ ở trong làng, và đòi con cái bọn chức dịch và giàu có cũng phải có trách nhiệm đóng góp mọi nghĩa vụ ở trong làng như mọi người dân khác. Cuối cùng cuộc đấu tranh đã thu được thắng lợi. Nhà cầm quyền đã buộc bọn địa chủ, chức dịch phải trả lại số ruộng công cho làng và buộc con cái chúng cũng phải làm các nghĩa vụ đóng góp như những người dân khác.
Tháng 4-1929, một lớp huấn luyện Tân Việt 3 tháng được mở tại nhà đồng chí Đỗ Huy Trinh (Thuần Hậu). Các đảng viên Tân Việt của Xuân Minh và một số cơ sở ở các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định đã được tham dự lớp huấn luyện này. Tại đây, các đảng viên Tân Việt trẻ đã được bồi dưỡng lý luận về chủ nghĩa Mác Lê nin (duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chủ nghĩa khoa học, chủ nghĩa tư sản dân quyền, tiểu sử các lãnh tụ, v.v... Một số tài liệu của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (như cuốn sách Đường Cách mệnh của đồng chí Nguyễn ái Quốc...) đã được sử dụng làm tài liệu chủ yếu để giảng dạy ở lớp huấn luyện này. Và bài huấn lệnh làm bằng văn vần được xem như sự tóm tắt về những phương châm hoạt động của người đảng viên Tân Việt được phổ biến rất rộng rãi lúc đó1.
Được tiếp thu, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác Lê nin và đường lối chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc tại lớp huấn luyện, các đảng viên Tân Việt của Xuân Minh đã trưởng thành nhanh chóng về nhận thức lý luận cách mạng, cho nên càng hăng hái đi sâu vào quần chúng để vận động cách mạng.
Cũng trong thời gian này, nội bộ của Đảng Tân Việt ở Thanh Hoá đang có sự phân hoá sâu sắc. Các đảng viên thuộc tầng lớp trên đã bộc lộ rõ tư tưởng quốc gia hẹp hòi và chống lại chủ trương thành lập một tổ chức cộng sản ở trong tỉnh. Tuy vậy, các đảng viên trẻ của Xuân Minh và của một số cơ sở Tân Việt ở Thanh Hóa vẫn kiên định lập trường theo chủ nghĩa Mác Lê nin và cương quyết chống lại lập trường bảo thủ đó. Và điều đó đã được thể hiện rõ trong quá trình chuyển hoá sang tổ chức cộng sản sau này.
Cuối năm 1929, cũng như bên tổ chức Thanh niên, tổ chức Tân Việt ở Thanh Hoá cũng bị khủng bố. Một số đảng viên Tân Việt nòng cốt của Xuân Minh đã bị địch bắt (như các đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ...), nhưng những đảng viên còn lại vẫn trung thành với sự nghiệp cách mạng, đã hoạt động tiếp tục một cách rất tích cực để chuẩn bị cho việc thành lập một tổ chức cộng sản sau đó.
Đến đây, vai trò chính trị của tổ chức Tân Việt cũng như tổ chức Thanh niên đã kết thúc. Nhưng với quá trình ra đời và hoạt động của nó, đã có tác dụng tạo tiền đề chín mùi cho sự ra đời của tổ chức cộng sản tại địa phương và trong tỉnh nói chung. Riêng đối với Xuân Minh, với sự ra đời và hoạt động của tổ chức Tân Việt, ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê nin và đường lối chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc đã được truyền đến mạnh mẽ, và những người con ưu tú của địa phương đã được đào tạo thành những cán bộ có năng lực, rất trung thành với sự nghiệp cách mạng. Cho nên, khi Tân Việt bị khủng bố và kết thúc vai trò thì đây vẫn là miếng đất tốt thúc đẩy sự ra đời sớm của một trong số những tổ chức cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Thanh Hoá.
II. SỰ THÀNH LẬP, CỦNG CỐ CƠ SỞ ĐẢNG VÀ NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH ĐẦU TIÊN CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH (1930 - 1935)
Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập. Đó là một sự kiện lịch sử vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cách mạng Việt Nam thực sự bước sang một thời kỳ mới thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sau khi ra đời, Đảng đã phát động được một cao trào cách mạng vô cùng rộng lớn với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Dưới sự lãnh đạo của ban chấp hành Trung ương Đảng, các cấp bộ Đảng ở các địa phương lần lượt được thành lập để tổ chức và lãnh đạo các cuộc đấu tranh.
Tại Thanh Hoá, do điều kiện vị trí địa lý tiếp cận với cả Bắc và Trung kỳ, cho nên, trong cùng khoảng thời gian, thông qua đường giây liên lạc cũ của hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt, cả xứ uỷ Bắc Kỳ và Trung kỳ đều xúc tiến việc bắt mối vận động xây dựng Đảng bộ cộng sản ở tỉnh ta1.
Ở Xuân Minh, trong bối cảnh lịch sử sôi động của đất nước và tỉnh nhà, các đảng viên Tân Việt trẻ tuổi vẫn kiên định lập trường theo chủ nghĩa Mác Lê nin và ra sức tuyên truyền vận động cách mạng để chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập một tổ chức cộng sản tại địa phương.
Đầu tháng 4-1930, sau khi ở tù ra, hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã trở về Xuân Minh để tiếp tục hoạt động. Tại làng Phong Cốc, hai đồng chí đã bắt mối ngay với số đảng viên và quần chúng của tổ chức Tân Việt cũ còn lại để thống nhất những phương châm hoạt động mới. Để tiến tới việc thành lập một tổ chức cách mạng, các đồng chí chủ trương làm tài chính, gây quĩ (như nuôi gà, làm vườn trầu, mua thóc gạo, v.v...) để rồi thông qua công tác này mà tập hợp lực lượng và liên lạc rộng ra các vùng xung quanh. Chỉ trong một thời gian ngắn, việc làm tài chính và gây quĩ cũng rất kết quả. Các đồng chí ở đây đã nuôi được gần 400 con gà và một vườn trầu rộng đến ba sào, sau đó lại mua được vài tấn lúa để tích luỹ. Cũng do hoạt động này mà việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê nin và việc vận động thành lập một tổ chức cách mạng cũng đã chín mùi ở Xuân Minh.
Đầu tháng 7-1930, với ảnh hưởng của cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, một số đảng viên tích cực và trung kiên của tổ chức Tân Việt cũ như các đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ (Thiệu Hoá) và Lê Văn Thiệp (Vĩnh Lộc) sau một thời gian liên hệ với nhau đã tự động nhóm họp tại làng Phong Cốc1 để thống nhất chủ trương tuyển chọn những đảng viên Tân Việt ưu tú nhất ở các địa phương để chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản. Đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ chịu trách nhiệm ở vùng Thiệu Hoá, Thọ Xuân và Yên Định, đồng chí Lê Văn Thiệp chịu trách nhiệm ở vùng Vĩnh Lộc, Cẩm Thuỷ.
Cuộc hội nghị Phong Cốc này có thể được xem là một sự kiện quan trọng chứng kiến sự ra đời của nhóm cộng sản ghép lần đầu tiên của hai huyện Thiệu Hoá và Vĩnh Lộc trên cơ sở tự chuyển hoá của một số đảng viên Tân Việt trung kiên còn lại. Cuộc hội nghị đó cũng chứng tỏ phong trào cách mạng của riêng khu vực Xuân Minh đã có sự thay đổi cơ bản về chất trên nguyên tắc và đường lối của chủ nghĩa Mác Lê nin. Nhưng dù sao thì cũng phải đợi đến khi chính thức bắt được liên lạc với Đảng thì sự thay đổi ấy mới đi đúng vào một quĩ đạo thống nhất trong guồng máy cách mạng chung của cả nước và cả tỉnh, đồng thời mới tạo ra được sức mạnh to lớn cho phong trào quần chúng trong cục diện đấu tranh với kẻ thù đế quốc và phong kiến tay sai.
Sau cuộc hội nghị Phong Cốc (7-1930), với sự hoạt động tích cực của ba đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ và Lê Văn Thiệp, các nhóm cộng sản ở Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định và Vĩnh Lộc đã lần lượt được thành lập và phát huy ảnh hưởng ngày càng mạnh trong quần chúng. Đặc biệt, tại phủ lỵ Vĩnh Lộc, nhóm cộng sản ở đây đã tổ chức treo cờ búa liềm tuyên truyền giới thiệu Đảng cộng sản và rải truyền đơn để phản đối tờ báo Thanh Nghệ Tĩnh tân văn - một tờ báo phản động và rất thù địch với chủ nghĩa cộng sản, đã gây được tiếng vang lớn ở các vùng trong tỉnh.
Ở Xuân Minh từ nhóm cộng sản đầu tiên ở làng Phong Cốc đã phát triển nhanh chóng sang các làng Ngọc Trung, Thuần Hậu và Xá Lê, sau đó lại lan rộng đến các làng Canh Hoạch (Xuân Lai), Phúc bồi (Thọ Lập), Yên Lãng (Phú Yên), Xuân Hoà, Hạnh Phúc, Vân Lộ của huyện Thọ Xuân và phía bên này là Ngọc Vực (Phúc Tĩnh Yên Định)1.
Nói chung, vào những tháng cuối năm 1930, ở Xuân Minh cũng như một số cơ sở của các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định và Vĩnh Lộc, mặc dù đã kịp thời chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản trong những phạm vi mức độ khác nhau, nhưng vì chưa bắt được liên lạc với Đảng một cách chính thức, cho nên mọi hoạt động lúc này vẫn thiếu một đường lối, một chủ trương sát đúng với yêu cầu, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của các nhóm cộng sản lúc này chủ yếu chỉ mới diễn ra dưới những hình thức như đòi cải cách hương thôn, đòi xoá bỏ và giảm bớt các hũ tục phong kiến nặng nề, lạc hậu, hay bài trừ mê tín dị đoan, v.v... Riêng ở làng Phong Cốc, việc đấu tranh chống lại lệ bất công nhiêu đã diễn ra một cách khôn khéo và có tổ chức với sự hưởng ứng đông đảo của quần chúng, đã buộc bọn lý hương phải chấp thuận: Lệ làng, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, ai cũng phải có nghĩa vụ đóng góp như nhau (như tuần làng, đưa ma, đắp đường, v.v...). Ngoài ra, ở các làng khác như Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung, việc đấu tranh đòi xóa bỏ và giảm bớt các hũ tục phong kiến lạc hậu cũng thu được một số kết quả, làm cho quần chúng rất phấn khởi. Tuy vậy, những cuộc đấu tranh này vẫn còn mang tính chất cục bộ ở từng địa phương và chưa phổ biến thành một phong trào quần chúng một cách sâu rộng. Do đó, một yêu cầu cấp thiết lúc này đã đặt ra đối với những chiến sĩ cộng sản vừa được chuyển hoá là phải nhanh chóng tìm cách bắt liên lạc với Đảng để thống nhất tổ chức và nhận chỉ thị về phương hướng, nội dung hoạt động cụ thể thì mới có thể làm cho tình hình biến chuyển một cách nhanh chóng và sâu rộng hơn.
Tháng 10-1930, nhóm cộng sản Xuân Minh đã tích cực xúc tiến việc bắt liên lạc với Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được phân công nhiệm vụ này. Qua sự giới thiệu của một số cơ sở Tân Việt cũ ở Lò Chum thị xã, đồng chí Nguyễn Văn Hồ đã quyết định xuống gặp đồng chí Ngô Đức Mậu một đảng viên Tân Việt còn lại, quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh hiện đang dạy học ở tổng Tuần Lá, huyện Tĩnh Gia để bàn cách đi Nghệ Tĩnh để tìm liên lạc với Đảng. Nhưng tại đây, đồng chí Ngô Đức Mậu lại vừa liên hệ được với đồng chí Lê Tất Đắc1 một cán bộ xứ uỷ Trung kỳ cử ra bắt mối với những đảng viên Tân Việt tích cực và số hội viên Thanh niên còn lại của tỉnh ta để vận động cho việc thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản ở Thanh Hóa. Cho nên, sau khi gặp gỡ với đồng chí Ngô Đức Mậu, được nắm biết chủ trương của xứ uỷ Trung kỳ, đồng chí Nguyễn Văn Hồ lại trở về Xuân Minh cùng với đồng chí Nguyễn Xuân Thuý tiếp tục tổ chức và củng cố các nhóm cộng sản vừa được chuyển hoá để thiết thực chuẩn bị cho việc thành lập Đảng bộ đảng cộng sản Thanh Hoá trong thời gian tới.
Thế là, sau mấy tháng chuẩn bị khẩn trương, ngày 1-1-1931, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ uỷ Trung kỳ, một cuộc hội nghị thành lập Ban chấp hành lâm thời tỉnh Đảng bộ đảng cộng sản Việt Nam Thanh Hoá được tổ chức tại làng Hồ Thượng (thuộc phủ lỵ Tĩnh Gia), với sự tham gia của 7 đại biểu của các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Quảng Xương và Tĩnh Gia. Sau khi tiếp thu chỉ thị của xứ uỷ và các tài liệu văn kiện của Đảng, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành tỉnh đảng bộ lâm thời gồm 5 đồng chí (Ngô Đức Mậu, Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ, Nguyễn Văn Giảng và Phạm Tiến Năng) do đồng chí Ngô Đức Mậu làm Bí thư.
Có thể nói, trong bối cảnh Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam Thanh Hoá do xứ uỷ Bắc kỳ chỉ đạo thành lập trước đó ở Yên Trường, Thọ Xuân (29-7-1930) vừa bị khủng bố (12-1930) thì đến đây, dưới sự chỉ đạo của xứ uỷ Trung kỳ, đảng bộ đảng cộng sản Việt Nam Thanh Hoá lại tiếp tục được thành lập là một hiện thực tất yếu và rất phù hợp với sự đòi hỏi ngày càng cấp thiết của phong trào cách mạng tỉnh ta khi đó. Điều này cũng chứng tỏ hùng hồn về sức sống bất diệt và sự quyết tâm cao độ của Đảng ta trong việc xác lập và giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam trên phạm vi cả nước. Trong quá trình vận động thành lập Đảng bộ, những người cộng sản Xuân Minh thực sự đóng góp hoạt động cho sự chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản ở địa phương cũng như ở các vùng khác trong, ngoài huyện.
Từ đây, phong trào cách mạng của Xuân Minh nói riêng và ở các cơ sở khác trong tỉnh nói chung lại được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất với những chủ trương, đường lối đúng đắn và rất cụ thể, cho nên đã tạo được một thế trận rộng lớn trên cục diện đấu tranh với quân thù.
Sau hội nghị thành lập Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng của Xuân Minh tiếp tục được củng cố và phát triển. Các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung, tổ chức Nông hội đỏ chính thức được thành lập và phát triển nhanh chóng. Riêng ở làng Phong Cốc, tính đến tháng 3 1931, số hội viên Nông hội đỏ đã có tới 18 người. Dưới sự lãnh đạo của cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội đỏ, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Xuân Minh ngày càng tiến mạnh cả về số lượng và chất lượng. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng dần dần được ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng.
Cuối tháng 3 1931, dưới sự bảo vệ chu đáo của các hội viên Nông hội đỏ, một cuộc họp bí mật của ba đồng chí Ngô Đức Mậu, Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ đã được tổ chức tại Vườn Trầu1 làng Phong Cốc để kiểm điểm đánh giá tình hình tổ chức và phong trào cách mạng chung ở trong tỉnh, đồng thời cử đại biểu vào Vinh để báo cáo và nhận chỉ thị của xứ uỷ Trung kỳ. Đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã vinh dự được thay mặt Đảng bộ Thanh Hoá để đảm nhận nhiệm vụ này.
Thực hiện Nghị quyết của hội nghị Vườn Trầu, cơ sở Đảng của Xuân Minh mà trực tiếp là ở làng Phong Cốc đã tìm kế hoạch bố trí cho đồng chí Nguyễn Xuân Thuý ra đi một cách an toàn và trót lọt.
Đầu tháng 4-1931, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã được gặp xứ uỷ tại thôn Yên Dũng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An cũ.
Sau khi nghe báo cáo của đại biểu Thanh Hoá, xứ uỷ đã chỉ thị cho Đảng bộ tỉnh ta phải nhanh chóng thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể chủ yếu như:
- Tổ chức biểu tình và các cuộc đấu tranh ở những nơi có điều kiện, treo cờ và rải truyền đơn ở các địa điểm quan trọng để thiết thực hưởng ứng cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1-5).
- Tiếp tục củng cố kiện toàn cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng và bộ máy lãnh đạo các cấp để kịp thời tổ chức, lãnh đạo các cuộc đấu tranh, v.v...
Ngoài ra, xứ uỷ còn giao cho đồng chí Nguyễn Xuân Thuý một số tài liệu cần thiết mang về cho Đảng bộ như điều lệ Nông hội đỏ, Cách mạng thổ địa, một số mẫu truyền đơn 1-5, v.v...
Cuối tháng 4-1931, Ban chấp hành tỉnh đảng bộ lâm thời đã mở một cuộc hội nghị mở rộng ở gần phà Ghép (thuộc huyện Tĩnh Gia). Sau khi nghe đồng chí Nguyễn Xuân Thuý báo cáo lại những ý kiến chỉ thị của xứ uỷ Trung kỳ, hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá lại tình hình công tác của Đảng bộ, đồng thời thảo luận những biện pháp và phương hướng cụ thể trước mắt để thi hành chỉ thị của xứ uỷ. Tại hội nghị này, ba đồng chí Lê Văn Thiệp (Vĩnh Lộc), Hà Duyên Đạt (Thọ Xuân), Nguyễn Trinh Thụ (Tĩnh Gia) đã được bầu bổ sung vào ban chấp hành tỉnh đảng bộ.
Chấp hành nghị quyết của hội nghị Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời mở rộng về việc thi hành chỉ thị của xứ uỷ Trung kỳ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng ở Xuân Minh đã xúc tiến ngay việc chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh mới nhân ngày quốc tế lao động (1-5) để ủng hộ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tại Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, các hội viên Nông hội đỏ được phân công in một số tài liệu và truyền đơn theo mẫu sẵn có của xứ uỷ để phân phát đi một số nơi như Thọ Xuân, Yên Định và Vĩnh Lộc.
Ngày 28-4-1931, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, một cuộc họp của một số đảng viên và hội viên Nông hội đỏ của các cơ sở cách mạng ở khu vực Xuân Minh được tổ chức tại nhà đồng chí Trịnh Văn Phan (Ngọc Trung) để bàn kế hoạch treo cờ và rải truyền đơn. Đồng chí Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc) và đồng chí Trịnh Văn Tiêu (Ngọc Trung) được phân công rải truyền đơn từ Cầu Vàng đến Hổ Bái (Yên Định), một số đồng chí thì được phân công mang truyền đơn đến các cơ sở cách mạng khác để bàn biện pháp phối hợp đấu tranh.
Đúng ngày 1-5-1931, tại thị xã, cờ Đảng đã ngạo nghễ tung bay trên nóc nhà ga Thanh Hoá, truyền đơn kỷ niệm ngày Quốc tế lao động và ủng hộ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được rải ở nhiều địa điểm quan trọng. ở trên này, theo kế hoạch đã định, truyền đơn cách mạng cũng đã xuất hiện ở vùng từ Cầu Vàng đi Hổ Bái. Còn kế hoạch biểu tình và treo cờ ở phủ Thọ Xuân phải hoãn lại vì chưa đủ điều kiện.
Mặc dù trong phạm vi toàn tỉnh lúc đó Đảng bộ chưa tổ chức được các cuộc biểu tình, nhưng với việc treo cờ, rải truyền đơn ở Thị xã và ở một số phủ huyện cũng có một tiếng vang lớn, làm cho ảnh hưởng và uy tín của đảng ngày càng sâu rộng trong quần chúng.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở Xuân Minh nói riêng và ở trong tỉnh nói chung đang có chiều hướng phát triển mạnh mẽ thì cuối tháng 6-1931, kẻ thù phát hiện được một số đảng viên1 làm nhiệm vụ phát triển Đảng lên Cẩm Thuỷ, cho nên từ đó đã phát hiện ra đầu mối và tập trung khủng bố vào Đảng bộ. Toàn bộ Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời đã lần lượt sa vào tay địch. Tại Xuân Minh, sau khi đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ bị bắt, kẻ địch còn điều động nhiều mật thám và tên tri phủ Thiệu Hoá về làng Phong Cốc, Ngọc Trung để tiến hành lục soát và khám xét những nơi chúng khả nghi. Đồng chí Nguyễn Văn Cáp một hội viên Nông hội đỏ cũng bị địch bắt vì cất giữ tài liệu.
Đến đây, phong trào cách mạng ở trong tỉnh lại tạm thời lắng xuống và thiếu một sự chỉ huy chung. Tuy vậy, ở Xuân Minh, những đảng viên còn lại cùng với những hội viên Nông hội đỏ vẫn bền bỉ, kiên trì các hoạt động duy trì phong trào và chắp nối tổ chức để đóng góp vào việc củng cố Đảng bộ Thanh Hoá trong thời gian tiếp theo.
Như vậy, từ giữa năm 1931 trở đi, trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh ta nói riêng, hoảng sợ trước sự lớn mạnh của phong trào quần chúng và uy tín của Đảng ngày một lên cao, đế quốc Pháp đã điên cuồng khủng bố một cách cực kỳ dã man, tàn bạo, hòng dìm cách mạng trong biển máu. Hàng ngàn chiến sĩ yêu nước và Đảng viên cộng sản bị bắt, bị giết, hoặc bị tù đày. Nhiều cơ quan của Đảng từ Trung ương trở xuống bị phá vỡ. Các tổ chức quần chúng do Đảng lập ra cũng bị tan rã hầu hết. Phong trào cách mạng đến đây tạm thời gặp nhiều khó khăn và sóng gió. Tuy vậy, tuyệt đại bộ phận những Đảng viên còn lại vẫn tuyệt đối trung thành và tin tưởng vào tiền đồ của Đảng, của cách mạng.
Khi kẻ thù vẫn đang tiếp tục tăng cường bộ máy đàn áp và tìm mọi thủ đoạn để tiêu diệt Đảng và bóp chết phong trào cách mạng của nhân dân ta thì một yêu cầu cấp thiết có tầm quan trọng đặc biệt được đặt ra đối với những người cộng sản chân chính là phải bằng mọi giá để khôi phục lại tổ chức, khôi phục lại phong trào trên tinh thần cương quyết và nhanh chóng nhất.
Tại Xuân Minh, mặc dù một số cán bộ, Đảng viên, chủ chốt (như đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ) bị bắt và bị kết án1, nhưng với tinh thần bất khuất kiên cường đã không chịu khai báo với địch, cho nên hầu hết số đảng viên và hội viên Nông hội đỏ ở đây vẫn còn nguyên vẹn. Đó chính là một nguyên nhân để cắt nghĩa ngọn lửa cách mạng của Xuân Minh vẫn không hề tắt giữa những ngày sóng gió nhất như lúc này.
Trong vòng kìm kẹp, khống chế của địch, những Đảng viên cộng sản và những quần chúng trung kiên còn lại của Xuân Minh vẫn bám sát cơ sở để chắp nối, cũng cổ tổ chức, củng cố phong trào, đồng thời tìm mọi cách để liên hệ với các đồng chí cán bộ Đảng viên chủ chốt đang bị giam giữ ở nhà lao Thanh Hoá để nắm biết những cơ sở, đầu mối còn lại của Đảng bộ mà liên lạc, bắt mối hoạt động. Cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội đỏ ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung đã kịp thời thống nhất chủ trương thay đổi các hình thức và phương pháp đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới như vận động quần chúng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất và khó khăn hoạn nạn. Nhờ đó mà cuối năm 1931, về mặt tổ chức cũng như phong trào ở đây đã đi vào thế ổn định và phát triển.
Đến đầu năm 1932, các đồng chí Đảng viên và hội viên Nông hội đỏ còn lại của Xuân Minh đã liên lạc được với một số cơ sở cách mạng ở các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc, và từ đó khu vực Xuân Minh đã trở thành một địa điểm liên lạc và đứng chân quan trọng của các chiến sĩ cách mạng ở nhiều địa phương trong tỉnh. Đặc biệt, từ Xuân Minh đến các làng Căng Hạ, Bình Ngô, Yên Lộ (Thiệu Hoá) và Ngọc Vực, Phúc Tĩnh (Yên Định) là những nơi mà cơ sở Đảng và phong trào quần chúng được phục hồi nhanh chóng nhất, đã liên hệ, phối hợp với nhau một cách mật thiết để thống nhất hành động. Chính những nơi này đã đóng góp rất tích cực cho quá trình khôi phục và củng cố của Đảng bộ tỉnh nhà.
Thực hiện Nghị quyết của hội nghị đại biểu bảy cơ sở cách mạng (thuộc các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành), được tổ chức ở làng Yên Lộ (2-1932), cơ sở Đảng ở Xuân Minh đã xúc tiến tổ chức, tập hợp quần chúng dưới hình thức các hội biến tướng (mà lúc đó vẫn gọi là họ Bạn) như hội đánh tranh, hội lợp nhà, hội đốn củi, hội cấy gặt, hội hiếu hỉ, hội làm dắng v.v... để hoạt động hợp pháp che mắt địch. Thông qua các hội biến tướng, cơ sở Đảng ở đây đã kêu gọi quần chúng tăng cường tinh thần thương yêu, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời vận động đấu tranh một cách hợp pháp như chống phù thu lạm bổ, chống cường hào nhũng nhiễu, chống hủ tục nặng nề. Do kết quả của các cuộc đấu tranh mà ở làng Thuần Hậu phải bỏ lệ lên chầm làm cỗ, hai miếu thờ phải bỏ bớt một, và tập trung các bát hương vào nhà thờ họ Đỗ, còn ở làng Phong Cốc thì phải bỏ lệ góp tiền làm thịt tế thần. Nói chung, ở các làng, tình trạng cúng tế liên miên và các lệ tục đóng góp nặng nề đã dần dần giảm bớt, riêng làng Thuần Hậu đã giảm được tới 50%.
Tháng 8-1932, hội nghị đại biểu bảy cơ sở cách mạng ở trong tỉnh lại được triệu tập lần thứ hai tại làng Ngọc Vực (Yên Định) để kiểm điểm tình hình và đề ra một nhiệm vụ cấp bách là xúc tiến việc liên lạc với Đảng cấp trên. Sau hội nghị, đồng chí Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc - Xuân Minh) và đồng chí Hoàng Văn Môn (Ngọc Vực Yên Định) được chính thức giao nhiệm vụ vào Nghệ An để tìm liên lạc với Đảng cấp trên, nhưng khi đến làng Yên Dũng (thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An cũ) thì cả hai đồng chí đều bị địch bắt nên công việc không thành1.
Đầu năm 1933, các cuộc đấu tranh đòi bãi bỏ các tục lệ đóng góp, lao dịch nặng nề, cũng như các cuộc đấu tranh chống bọn cường hào chức dịch phù thu lạm bổ và nhũng nhiễu nhân dân vẫn được phát động tiếp tục ở các làng của Xuân Minh đã làm cho quần chúng rất phấn khởi và hưởng ứng đông đảo.
Tháng 8-1933, giữa lúc bọn nhà giàu, chức dịch lợi dụng lúc giáp hạt và một đợt lụt cướp hết hoa màu, đã dở thủ đoạn cho vay nhỏ giọt với lãi suất rất cao để bóp nặn nhân dân, cơ sở Đảng ở làng Thuần Hậu mà đứng đầu là đồng chí Đỗ Huy Trinh đã kịp thời tổ chức, lãnh đạo 50 nông dân đi vay lúa 2 nhà giàu ở trong làng. Tất cả mọi người đều ký vào lá đơn đòi vay lúa để thống nhất hành động. Đối với nhà giàu Đỗ Văn Duyên, vì có con nằm trong tổ chức Nông hội đỏ vận động trước, cho nên đã nhanh chóng chấp nhận cho nông dân vay 60 thùng lúa. Riêng nhà giàu Mai Văn Kiều, thái độ rất ngoan cố. Khi đoàn vay lúa kéo đến, y đã sử dụng viên Tiên chỉ dùng uy thế là người đứng đầu trong làng để ngăn cấm và đe doạ mọi người. Nhưng trước lý lẽ và áp lực đấu tranh của quần chúng, viên Tiên chỉ đành cứng họng, rút lui, còn Mai Văn Kiều phải nhượng bộ để nông dân vay 50 thùng lúa.
Có thể nói, đây là cuộc đấu tranh mang tính chất hợp pháp và nửa hợp pháp tiêu biểu của tỉnh ta trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Mặc dù đó chỉ là cuộc đấu tranh kinh tế, nhưng lại đáp ứng được kịp thời yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng, cho nên tác dụng chính trị lại rất cao. ảnh hưởng của cuộc đấu tranh này đã làm cho khí thế của phong trào ở các làng xung quanh thêm sôi nổi.
Tháng 12-1933, để thúc đẩy phong trào cách mạng Xuân Minh tiến thêm một bước, cơ sở Đảng ở đây đã tổ chức một cuộc diễn thuyết tuyên truyền bí mật tại Nghè Thuần Hậu, có tới 43 người tham dự, bao gồm các Đảng viên, hội viên Nông hội đỏ và quần chúng trung kiên của 4 làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung. Người diễn thuyết là đồng chí Trịnh Hữu Thường và đồng chí Trịnh Khắc Sản. Và đến đầu năm 1934, một cuộc diễn thuyết tuyên truyền bí mật lại tiếp tục được tổ chức tại làng Xá Lê, có tới 50 người đến dự, người diễn thuyết là đồng chí Trịnh Khắc Sản.
Cả hai cuộc diễn thuyết tuyên truyền bí mật này đều do đồng chí Đỗ Đình Khanh lãnh đạo, và nội dung là nhằm bồi dưỡng nâng cao nhận thức, tình cảm về Đảng, về cách mạng, đồng thời chỉ rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, và kêu gọi đoàn kết đấu tranh, v.v... Nhờ đó mà phong trào của Xuân Minh càng có nhiều điều kiện để phát triển cả về bề rộng và bề sâu, đồng thời từ đây, phong trào lại ảnh hưởng và lan rộng đến các làng xung quanh như Trung Lập (xã Xuân Lập bây giờ), Phong Lai, Canh Hoạch (xã Xuân Lai bây giờ), v.v... Cũng thời gian này, nhiều quần chúng trung kiên được thử thách trong đấu tranh, hoặc trong các hội biến tướng đã được kết nạp tiếp tục vào tổ chức Nông hội đỏ để bổ sung lực lượng nòng cốt cho phong trào. Một số cán bộ, đảng viên chủ chốt của Xuân Minh như các đồng chí Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc), Đỗ Đình Khanh (Xá Lê), Đỗ Huy Trinh (Thuần hậu), Trịnh Văn Phan (Ngọc Trung)... không những chỉ lãnh đạo trực tiếp phong trào ở đây mà còn có trách nhiệm bắt mối tuyên truyền xây dựng các cơ sở cách mạng ở một số địa phương khác ngoài khu vực.
Trong bối cảnh của tỉnh nhà lúc đó, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng Xuân Minh vẫn là một địa điểm đứng chân rất đáng tin cậy của các chiến sĩ cách mạng. Các đồng chí cán bộ, đảng viên cốt cán của tỉnh như đồng chí Lê Chủ, Hoàng Văn Mạch, Bùi Đạt, Trịnh Khắc Sản, Trịnh Hữu Thường... và cả đồng chí Nguyễn Tạo một chiến sĩ cộng sản vừa vượt khỏi nhà tù Hoả lò Hà Nội để bắt mối về Thanh Hoá cũng thường xuyên qua lại Xuân Minh để hoạt động. Trước sự phát triển vững mạnh của phong trào cách mạng ở đây, các đồng chí đã quyết định chọn Xuân Minh làm địa điểm triệu tập một cuộc hội nghị chính thức để thống nhất chủ trương khôi phục và củng cố lại đảng bộ Thanh Hoá.
Ngày 17-3-1934, tại nhà đồng chí Đỗ Huy Trinh (Thuần Hậu), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Tạo và Lê Chủ, hội nghị đại biểu của các cơ sở Đảng ở trong tỉnh đã được triệu tập chính thức để thống nhất chủ trương củng cố, phát triển Đảng và các tổ chức quần chúng, thành lập cơ quan ấn loát và bầu ra ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời gồm bảy uỷ viên, do đồng chí Lê Chủ làm Bí thư. Cuộc hội nghị đã được lực lượng cách mạng ở Xuân Minh mà trực tiếp là ở làng Thuần Hậu bảo vệ an toàn.
Sự ra đời của Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời lần này đã trở thành một cái mốc đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng của phong trào cách mạng Thanh Hoá. Nhiệm vụ trung tâm là xây dựng lại hệ thống tổ chức Đảng ở trong tỉnh đã diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ, nhưng cuối cùng vẫn thắng lợi. Điều đó cũng chứng tỏ sức sống mãnh liệt của đảng ta. Trong quá trình ấy, những người chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng trung kiên của Xuân Minh đã thực sự đóng góp một phần quan trọng đối với sự phục hồi của Đảng bộ tỉnh nhà.
Từ đây, phong trào cách mạng ở Xuân Minh và các địa phương khác trong tỉnh lại được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ tỉnh mà bộ phận đầu não là Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ lâm thời, cho nên càng có điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng và vững chắc hơn.
Sau hội nghị Thuần Hậu, cơ quan in của đảng bộ tỉnh (ở Yên Lộ Thiệu Hoá) hoạt động rất tích cực. Nhiều tài liệu cách mạng như A B C cộng sản, Duy vật sử quán, Tóm tắt lịch sử loài người, Nông dân vận động, Bài ca dân cày, Điều lệ đảng, Điều lệ Nông hội đỏ, và một số bài viết của đồng chí Nguyễn Tạo như Cách mạng vấn đáp, Đông Dương sẽ làm mồi cho hai con ác thú Nhật Pháp, Câu chuyện dân nghèo, v.v... đã lần lượt được gửi đến các cơ sở cách mạng của Xuân Minh và các cơ sở cách mạng khác ở trong tỉnh để bồi dưỡng, nâng cao tình cảm, nhận thức và lý luận cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực, nhờ đó mà tổ chức về phong trào cách mạng càng được củng cố và phát triển.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở Xuân Minh và trong tỉnh nói chung đang trên đà đi lên thì từ tháng 4 đến đầu tháng 5-1934, thực dân Pháp đã mở một đợt truy lùng các chiến sỹ cộng sản Thanh Hoá. Một số cán bộ chủ chốt của Đảng bộ như đồng chí Nguyễn Tạo, Lê Chủ, Bùi Đạt... đã lần lượt sa vào lưới địch. Tuy vậy, do giữ vững nguyên tắc hoạt động bí mật và lòng trung thành của cán bộ, đảng viên và quần chúng cho nên hầu hết tất cả các cơ sở cách mạng của Đảng bộ vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Mọi hoạt động của Đảng bộ và của các cơ sở cách mạng vẫn được triển khai một cách bình thường, bí mật. Cơ quan in của Đảng bộ lại chuyển từ làng Yên Lộ sang làng Ngọc Vực (Yên Định) và tại đây, tờ báo Hồn lao động tiếng nói của Đảng bộ được xuất bản, và số báo đầu tiên đã ra đời vào tháng 6-1934.
Thời gian này, phong trào ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung (của Xuân Minh), Long Linh (Thọ Trường), Ngọc Vực (Yên Định), Yên Lộ (Thiệu Hóa)... vẫn là những nơi phát triển vững chắc nhất so với các cơ sở cách mạng khác ở trong tỉnh.
Cuối năm 1934, làng Phong Cốc (Xuân Minh) là một trong những cơ sở cách mạng đầu tiên của tỉnh đã thành lập được tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản và Hội phụ nữ giải phóng để tập hợp đông đảo lực lượng thanh niên và phụ nữ tham gia hoạt động cách mạng. Sang năm 1935, các làng Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung cũng lần lượt thành lập được các tổ chức này.
Tháng 2-1935, đại biểu của làng Phong Cốc, Xá Lê được triệu tập để tham dự hội nghị thành lập Hội phụ nữ giải phóng liên khu vực Thiệu Hoá - Thọ Xuân Yên Định tại làng Long Linh ngoại (nay thuộc xã Thọ Trường, huyện Thọ Xuân).
Từ sau hội nghị này, nhiều chị em phụ nữ Xuân Minh, qua rèn luyện thử thách đã tỏ rõ năng lực hoạt động cách mạng rất xuất sắc.
Tháng 6-1935, tỉnh Đảng bộ lâm thời đã tổ chức một cuộc mít tinh tại chùa Bút (Yên Định). Thành phần tham dự gồm đông đảo cán bộ, Đảng viên và quần chúng trung kiên ở các cơ sở cách mạng của hai huyện Yên Định và Thiệu Hoá. Riêng Xuân Minh, cơ sở cách mạng ở làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung đã có tới 60 người đến tham dự. Tại cuộc mít tinh, đồng chí Trịnh Huy Quang thay mặt ban chấp hành Tỉnh đảng bộ lâm thời đã đứng lên diễn thuyết với nội dung giới thiệu khái quát tình hình phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt nhấn mạnh về ý nghĩa của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, đồng thời kêu gọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp quần chúng (trong đó có phụ nữ) hăng hái tích cực tham gia vào các tổ chức và hoạt động cách mạng, mở rộng hơn nữa các tổ chức quần chúng, chuẩn bị thành lập hội ái hữu để thay thế cho các hội biến tướng vừa qua.
Sau cuộc mít tinh, nắm bắt được chủ trương của Tỉnh Đảng bộ, cơ sở cách mạng ở các làng của Xuân Minh đã nhanh chóng xúc tiến việc thành lập ra tổ chức ái hữu để thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Thời gian này, trong tổ chức cách mạng, lực lượng thanh niên và phụ nữ được bổ sung ngày một nhiều và hoạt động rất hăng hái. Riêng làng Phong Cốc, trong quá trình vận động, đã hình thành ba nhóm hoạt động theo lứa tuổi (nhóm thanh niên, nhóm trung niên và nhóm đứng tuổi), do đó đã có tác dụng tuyên truyền một cách sâu rộng hơn trong quần chúng.
Tháng 7-1935, đại biểu của các cơ sở cách mạng ở làng Phong Cốc, Xá Lê, Ngọc Trung đã được tham dự hội nghị thành lập Ban trị sự ái hữu liên khu vực Yên Định Thiệu Hoá tại làng Ngọc Vực (Yên Định) do đồng chí Hoàng Văn Mạch chủ trì. Đồng chí Nguyễn Xuân Liên (Phong Cốc) và đồng chí Đỗ Đình Khánh (Xá Lê) đã được hội nghị cử vào Ban Trị sự ái hữu liên khu vực. Tại hội nghị này các đại biểu đã nhất trí thông qua các khẩu hiệu đấu tranh mới như chống sưu cao, thuế nặng, chống phù thu lạm bổ, chống cường hào nhũng nhiễu, v.v...
Việc thành lập Ban trị sự ái hữu liên khu vực Yên Định Thiệu Hoá càng tạo thêm điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phong trào cách mạng phát triên lên một quy mô lớn. Lúc này, Ban trị sự ái hữu của tổng và liên tổng cũng ra đời để trực tiếp theo dõi và thống nhất phối hợp hành động giữa các làng với nhau. Nhờ đó mà phạm vi hoạt động của phong trào được mở rộng không ngừng. Tại Xuân Minh, phong trào dần dần lan sang cả làng Yên Thọ, Phú Tình và Thiên Lộc.
Để hạn chế sự phát triển của phong trào cách mạng, ngay từ đầu năm 1935, kẻ địch đã sử dụng những tên tay sai đắc lực nhất như Hào Văn (Phong Cốc) và Hào Liên (Thuần Hậu) với danh nghĩa truyền đạo để thực hiện mục đích chia rẽ các lực lượng quần chúng ở địa phương. Bên cạnh thủ đoạn tuyên truyền bịp bợm, chúng còn bỏ tiền bạc kinh tế để lôi kéo những quần chúng nhẹ dạ cả tin. Vì thế, chỉ sau mấy tháng, ở Xuân Minh đã có tới 40 người theo đạo. Đứng trước tình hình đó, các đồng chí cán bộ, đảng viên chủ chốt ở Xuân Minh đã quyết định mở một cuộc vận động chống bọn phản động đội lốt tôn giáo và từng bước giải thích cho quần chúng thấy rõ âm mưu nham hiểm của kẻ thù. Cuộc vận động này đã diễn ra một cách bền bĩ, kiên trì và rất khôn khéo trong gần một năm, có lúc cũng rất căng thẳng, nhưng cuối cùng vẫn thu được thắng lợi hoàn toàn. Kết quả bọn phản động đội lốt tôn giáo vẫn không thể nào lập được nhà nhờ ở mảnh đất cách mạng này, còn 40 quần chúng nhẹ dạ cả tin sau khi được tuyên truyền giải thích đã thấy được âm mưu của bọn phản động, nên tự nguyện không theo đạo nữa, riêng chỉ có Hào Văn là vẫn ngoan cố, nhưng vì bị cô lập hoàn toàn, cho nên y phải đưa gia đình lên vùng Phúc Địa, Đá Lát để sống, còn riêng y thì vẫn đi về Xuân Minh để tìm cách trả thù cách mạng.
Có thể nói, cuộc vận động chống bọn phản động đội lốt tôn giáo ở Xuân Minh (từ đầu năm 1935 đến cuối năm 1935) đã diễn ra một cách thắng lợi, điều đó chứng tỏ rằng các cơ sở cách mạng ở đây rất vững vàng, trình độ giác ngộ của quần chúng rất cao, chính vì thế mà mọi âm mưu nham hiểm hòng phá hoại phong trào cách mạng của kẻ thù đều bị ngăn chặn và đẩy lùi.
Như vậy, sau những năm chống khủng bố để khôi phục và phát triển phong trào, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng cách mạng ở Xuân Minh không những vẫn đứng vững mà ngày càng trưởng thành nhanh chóng qua các cuộc đấu tranh, đồng thời còn tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của cao trào cách mạng sau đó. Trong những năm này, những chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng ở đây đã thực sự đóng góp một phần đáng kể vào quá trình thành lập, củng cố của Đảng bộ tỉnh nhà và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quí báu về việc bảo tồn và phát triển lực lượng cách mạng, về phương pháp hoạt động bí mật đã giữ vững tổ chức và tập hợp quần chúng, về sự chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phong trào phát triển lên một bước cao hơn, v.v... và đến cuối năm 1935, phong trào cách mạng của Xuân Minh đã thực sự vững vàng để thẳng bước sang một thời kỳ mới thời kỳ cao trào vận động dân chủ của Đảng ta (1936-1939).
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH ĐÒI QUYỀN DÂN SINH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH (1936-1939)
Tháng 7-1935, trước tình hình chủ nghĩa phát xít đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới mới để giành giật và chia lại thị trường, đồng thời thực hiện âm mưu tiêu diệt Liên Xô - thành trì của cách mạng thế giới, đại hội lần thứ bảy của Quốc tế cộng sản đã được triệu tập ở Matxcơva để bàn biện pháp chống lại nguy cơ của chủ nghĩa phát xít. Đại hội vạch ra nhiệm vụ trước mắt cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh để lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh phát xít xâm lược, bảo vệ dân chủ và hoà bình.
Tháng 4-1936, Mặt trận nhân dân Pháp do Đảng cộng sản làm nòng cốt đã giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, dẫn đến việc thành lập một Chính phủ tiến bộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Sự kiện này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị của ba nước Đông Dương.
Xuất phát từ tình hình trong nước và thế giới, và căn cứ vào Nghị quyết của đại hội quốc tế cộng sản lần thứ bảy, tháng 7-1936, hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đã họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) để vạch ra chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt Nam. Hội nghị đã chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến để thực hiện Dân tộc độc lập và người cày có ruộng vẫn không thay đổi, nhưng trong tình hình lúc này chưa phải là nhiệm vụ cách mạng trực tiếp và trước mắt phải tạm gác khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập và khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày để thay vào đó là các khẩu hiệu đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình. Để thực hiện mục tiêu ấy, hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận phản đế rộng rãi (mà sau đó đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương) để tập hợp mọi tầng lớp, mọi giai cấp, tôn giáo... thành một khối đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ.
Từ sau hội nghị Trung ương Đảng, phong trào cách mạng nước ta thực sự bước sang một thời kỳ mới thời kỳ cao trào vận động đòi quyền dân sinh, dân chủ vô cùng to lớn và rộng khắp.
Ở tỉnh ta, trong bối cảnh lịch sử lúc đó, mặc dù chưa bắt được liên lạc trực tiếp với Trung ương Đảng, nhưng Đảng bộ Thanh Hoá vẫn hoạt động một cách tích cực và nhạy bén, đồng thời thông qua một số báo chí công khai tiến bộ, Đảng bộ đã kịp thời nắm bắt được những biện pháp để thúc đẩy, chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng của tỉnh nhà cho phù hợp với sự đòi hỏi của tình hình mới.
Tháng 2 1936, Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời tổ chức một cuộc họp tại chùa Yên Lộ (thuộc Thiệu Vũ, Thiệu Hoá) để kiểm điểm, đánh giá phong trào cách mạng chung ở trong tỉnh, đồng thời bàn biện pháp xúc tiến thêm một bước công tác xây dựng Đảng bộ, xây dựng các tổ chức quần chúng và kiện toàn lại Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời (đồng chí Lê Chủ được cử làm Bí thư).
Tại Xuân Minh, cơ sở đảng và các tổ chức quần chúng sau những năm củng cố đã vững vàng thì đến giai đoạn này lại càng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng. Các Hội ái hữu dưới hình thức họ bạn ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung và tiếp sau đó là Yên Thọ, Phú Tình, Thiên Lộc đã lần lượt chuyển thành hội Tương tế ái hữu để tập hợp đông đảo quần chúng đấu tranh từng bước từ thấp đến cao. Lúc này, sự hoạt động ở các làng đã có sự phối hợp rất chặt chẽ với nhau. Ban trị sự liên thôn ở đây đã phát huy vai trò một cách rất tích cực.
Cũng vào thời gian đầu năm 1936, do kết quả của phong trào đấu tranh chung ở toàn quốc, nhiều chính trị phạm đã được ân xá. Hai đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ từ nhà tù Lao Bảo đã trở về Xuân Minh để tiếp tục hoạt động, làm cho đội ngũ lãnh đạo cốt cán của địa phương được tăng cường vững mạnh hơn.
Tháng 3-1936, một số đại biểu trong tổ chức tương tế ái hữu của các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu đã được tham dự cuộc mít tinh cổ vũ việc thành lập các trường lớp bình dân ở làng Ngọc Vực (Yên Định) do đồng chí Hoàng Văn Mạch chủ trì. Sau cuộc mít tinh này, các làng của Xuân Minh đã lần lượt tổ chức được các lớp học bình dân với sự tham gia đông đảo của quần chúng các lứa tuổi và phụ nữ. Cơ sở Đảng và Ban trị sự ở đây đã có một số đồng chí trong tổ chức đứng ra phụ trách giảng dạy ở các lớp học. Với việc tổ chức được các lớp học bình dân, sách báo công khai của Đảng lại càng có điều kiện lưu hành và tuyên truyền rộng trong quần chúng.
Phong trào đấu tranh của quần chúng lúc này diễn ra ngày càng liên tục với những nội dung đòi xoá bỏ hũ tục, đòi chia lại công điền công thổ, đòi giảm miễn sưu thuế, đòi nam nữ bình quyền, v.v... Nhưng sôi nổi và quyết liệt nhất là cuộc đấu tranh chống tên Tây Đoan ở làng Phong Cốc.
Chiều ngày 14-9-1936, tên Tây Đoan Béc nác - đơ (Bernardet) và một số lính áp vào làng Phong Cốc, lấy cớ bắt rượu lậu, thuốc lào để phát hiện tại liệu và cơ sở cách mạng ở đây. Trong khi chúng đang lục soát ở một gia đình cạnh nhà đồng chí Nguyễn Xuân Liên nơi cất giữ tài liệu bí mật của Đảng, một số đồng chí trong ban cán sự Tương tế ái hữu của làng đã kịp thời chuyển số tài liệu đi nơi khác một cách an toàn, đồng thời cử người đánh trống liên thanh để báo động cho quần chúng kéo đến ngăn chặn hành động của chúng. Số người ở làng Phong Cốc và các làng lân cận như Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê dồn đến mỗi lúc một đông và vây chặt lấy chúng. Được một lúc, lý trưởng Trần Văn Hoàng (sau khi được đồng chí Nguyễn Xuân Oanh đến báo tin và kích động về việc bọn Tây Đoan tự tiện lục soát ở trong làng mà không trình bày với ai) đã cầm gậy chạy đến để đình chỉ và ngăn cấm việc làm trái phép này của bọn chúng. Trước thái độ cứng rắn của Lý trưởng Hoàng và áp lực mạnh mẽ của quần chúng, tên Béc nác - đô hoảng sợ, vội rút súng bắn chỉ thiên để thị uy. Hành động này càng làm cho quần chúng phẫn nộ thêm. Trong giờ phút căng thẳng, được sự hỗ trợ của quần chúng, lý trưởng Hoàng đã giơ gậy đánh thẳng vào tên Tây Đoan thì nó chĩa súng bắn trả ngay. Lý trưởng Hoàng ngã xuống. Ngọn lửa căm thù bốc cao trong lòng quần chúng. Nhiều người đã xông vào đánh tên Tây Đoan cùng bọn lính và cương quyết đòi chúng phải đền mạng cho viên lý trưởng vừa bị chết. Thấy tình hình diễn biến đã đến độ gay gắt và rất phức tạp, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của địa phương đã giải thích cho quần chúng thấy rõ âm mưu của địch và yêu cầu tất cả mọi người phải bình tĩnh để tìm biện pháp giải quyết. Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý đã nhận trách nhiệm xuống Thiệu Hoá báo cho tri phủ biết sự việc này và đề nghị y lên ngay hiện trường để giải quyết việc bồi thường tính mạng cho nạn nhân.
Ngay đêm ấy, tên tri phủ Thiệu Hoá Phan Sĩ Thao phải lên ngay hiện trường xảy ra sự việc ở làng Phong Cốc để giải quyết. Và tại đây, y phải hứa trước quần chúng là sẽ bồi thường cho gia đình nạn nhân sau khi nhận bảo lãnh tha cho tên Béc nac - đô.
Nhưng sau khi được thả ra, tên Tây Đoan và đồng bọn đã lập mưu tự gây ra thương tích để vu cáo nhân dân làng Phong Cốc đánh quan tây và những nhà chức trách trong lúc đang thi hành nhiệm vụ. Thủ đoạn đổi trắng thay đen này lại được tên phản động Đỗ Hữu Văn đứng ra làm chứng. Do đó mà thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã ra lệnh bắt 10 người mà chúng cho là cầm đầu vụ nổi loạn này, trong đó có cả đảng viên và cán bộ chủ chốt của làng1.
Được sự giúp đỡ, ủng hộ của nhiều cơ sở cách mạng trong tỉnh, cuộc đấu tranh của nhân dân làng Phong Cốc vẫn diễn ra một cách bền bỉ, liên tục trên cả mặt pháp lý và đã gây được tiếng vang rất lớn trên báo chí lúc bấy giờ. Đặc biệt, phóng viên của tờ báo Le Travail (Lao động) đã về tận làng Phong Cốc tìm hiểu sự việc để đăng bài trên báo. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được giao nhiệm vụ đến gặp Phan Văn Giáo để nhờ nói với luật sư Trần Văn Chương đứng ra bào chữa trong vụ này1.
Cuối cùng, trước sức mạnh đoàn kết đấu tranh và được dư luận tiến bộ ủng hộ, thực dân Pháp mặc dù đổi trắng thay đen xử số người bị bắt của làng Phong Cốc từ toà án đen ở Vinh đến toà án đỏ (tức toà án đại hình) ở Hà Nội, nhưng cuối cùng vẫn phải buộc tuyên bố cho 7 người trắng án và 3 người bị phạt giam từ 1 đến 3 năm2. Riêng tên thực dân Béc nác - đô, mặc dù là người mẫu quốc và được bọn thống trị che chở nhưng vẫn phải bị kết án 5 tháng tù treo và bị trục xuất khỏi xứ Trung kỳ.
Cuộc đấu tranh chống tên Tây Đoan ở làng Phong Cốc thắng lợi đã gây được tiếng vang rộng lớn trong toàn tỉnh và trong cả nước. Với thắng lợi ấy, quần chúng càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, đây là cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp tiêu biểu nhất của Thanh Hoá lúc này, và đồng thời đã trở thành một cái mốc mở đầu cho thời kỳ vận động dân chủ ở tỉnh ta; mặt khác, đây cũng chính là cuộc tập dượt lớn đầu tiên của nhân dân Xuân Minh trong đấu tranh trực diện với kẻ thù. Cuộc đấu tranh này còn biểu hiện sự vận dụng khéo léo giữa hình thức đấu tranh công khai hợp pháp với hình thức không hợp pháp của cơ sở cách mạng ở đây. Chính vì thế mà càng về sau, sự kết hợp đó càng được biểu hiện phong phú, sinh động và có kinh nghiệm hơn.
Cuối năm 1936, phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp do Đảng ta lãnh đạo đã lên mạnh. Nhằm thúc đẩy phong trào phát triển lên một bước mới, tháng 12-1936, ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời đã tổ chức một cuộc họp làng Yên Lộ (Thiệu Hoá) để đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể cho cuộc vận động dân chủ ở tỉnh ta phát triển đều khắp cả thành thị và nông thôn, mặt khác lưu ý đặc biệt đến phong trào công nhân ở các nhà máy, đồn điền và hầm mỏ.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, từ đầu năm 1937 trở đi, phong trào đấu tranh của nhân dân Xuân Minh càng có nhiều điều kiện để phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt về mặt xây dựng các tổ chức quần chúng rất được chú trọng vẫn là nét nổi bật của cơ sở cách mạng ở đây. Đoàn Thanh niên phản đế và Hội Phụ nữ phản đế (mà sau đó đến năm 1938 thì đổi là Đoàn Thanh niên dân chủ và hội Phụ nữ dân chủ) lần lượt được thành lập ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung. Đó là những lực lượng nòng cốt trong các cuộc đấu tranh. Lúc này, hội Tương tế ái hữu phát triển đông đảo và đều khắp ở tất cả 7 làng, làm cho đội ngũ cách mạng ở đây càng thêm vững chắc. Cơ sở Đảng ở Xuân Minh đã bố trí một số đồng chí Đảng viên hoặc hội viên tương tế ái hữu trung kiên tham gia bộ máy chính quyền địch tại mỗi làng, làm cho phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp càng có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển mau lẹ.
Phong trào học chữ quốc ngữ trong thời gian này cũng được mở rộng nhanh hơn. ở đây có cả lớp học buổi tối, có cả lớp học ban ngày, thu hút được nhiều chị em phụ nữ và người nhiều tuổi tham gia. Có làng như Thuần Hậu, Phong Cốc đã mở được từ 2 đến 3 lớp học cho quần chúng.
Tinh thần đoàn kết đấu tranh và tình tương thân tương ái được phát huy cao độ qua những hoạt động cụ thể của hội Tương tế ái hữu ở các làng như giúp đỡ nhau trong sinh hoạt đời sống và trong sản xuất, nhất là khi khó khăn hoạn nạn (ốm đau, làm nhà, cưới xin, sinh đẻ, ma chay, v.v...), hay lúc bài trừ mê tín dị đoan và hũ tục xôi cân gà lượt nặng nề, hoặc việc chống bọn cường hào, lý hương nhũng nhiễu, ức hiếp dân nghèo, v.v... Với những nội dung hoạt động ấy mà hội Tương tế ái hữu đã thu hút quần chúng ở các làng tham gia mỗi ngày một đông đảo, thậm chí ngay cả một số con cháu lý hương cũng tự nguyện xin vào hội và ngày càng có cảm tình với cách mạng.
Tháng 6-1937, do nạn hạn hán mất mùa gây ra tình trạng đói kém, cơ sở Đảng và Ban trị sự của Hội tương tế ái hữu ở đây một mặt mở cuộc vận động vay lúa nhà giàu để giúp đỡ những gia đình nghèo khó, mặt khác đã phát động chị em phụ nữ ở các làng đoàn kết đấu tranh đòi các nhà giàu phải tăng công cày và công cấy. Cuộc đấu tranh này còn được chị em phụ nữ ở một số làng lân cận ủng hộ, cho nên đã mau chóng thu được kết quả. Cuối cùng, các nhà giàu ở làng Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung đã phải nhượng bộ tăng công cày, công cấy mỗi ngày từ 2 bơ lên 3 bơ gạo. Riêng làng Phong Cốc, một số nhà giàu còn ngoan cố tìm thủ đoạn thuê thợ cày, thợ cấy ở nơi khác đến, nhưng trước áp lực đấu tranh của quần chúng và sự thống nhất hành động của những người thợ cày, thợ cấy trong, ngoài địa phương, cho nên cuối cùng đã buộc chúng phải nhượng bộ tăng công cày, công cấy như các làng trên.
Cuộc vận động vay lúa nhà giàu cho dân nghèo và cuộc đấu tranh đòi tăng công cày công cấy giành được thắng lợi, làm cho quần chúng rất phấn khởi. Một lần nữa, chị em phụ nữ Xuân Minh lại được tập dượt và thử thách trực tiếp trong cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế hàng ngày đã tỏ rõ là một lực lượng rất quan trọng trong trận tuyến đấu tranh cách mạng tại địa phương. Cũng từ đây, qua rèn luyện thử thách, một số chị em đã trở thành những cán bộ nòng cốt của phong trào cơ sở như các đồng chí Đỗ Thị Hạm (Thuần Hậu), Trịnh Thị Niếp, Trịnh Thị Thịnh (Ngọc Trung), Nguyễn Thị Vần (Phong Cốc), Nguyễn Thị Ven (Xá Lê), v.v...
Bên cạnh các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế hàng ngày, ở các làng của Xuân Minh còn diễn ra một số cuộc đấu tranh hạ uy thế cường hào. Tiêu biểu nhất là vụ đánh lý trưởng ở làng Xá Lê. ở đây, hàng tháng cứ vào ngày 1 và ngày 15 âm lịch là có lệ cúng trầu rượu ở trên nghè. Và sau khi cúng đều phải chia phần trầu rượu cho các vị trùm lão và chức sắc ở trong làng. Vào dịp này, một số đồng chí trong Ban trị sự của Hội Tương tế ái hữu đã tổ chức vận động mọi người không chia phần trầu rượu cho những ai vắng mặt. Lý trưởng Thoại vì không đi nên không được chia. Y cậy thế, chửi mắng, và quát nạt mọi người rất hống hách. Thấy vậy, đồng chí Đỗ Huy Phấn và đồng chí Trịnh Văn Khâm đã bố trí đánh lý trưởng Thoại một trận. Y hô hoán ầm ĩ. Mọi người đổ xô chạy ra. Nhưng vì không có tang chứng cụ thể cho nên bọn chức dịch ở trong làng cũng không làm gì được.
Cuộc đấu tranh hạ uy thế cường hào còn diễn ra dưới hình thức khác sinh động hơn. ở làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, vào tháng 5 âm lịch thường có lễ cầu mát dưới gốc đa trước làng. Lợi dụng dịp này, ban trị sự của hội Tương tế ái hữu đã đưa vào đó nội dung và hình thức rất mới, nhưng chủ yếu là để tố cáo, vạch mặt tội lỗi của bọn cường hào bóc lột thông qua các bài văn tế (mà lúc đó gọi là vè khao thuyền). Tác dụng của hình thức này cũng làm cho quần chúng nâng cao được nhận thức về cách mạng, về bạn, thù, v.v... ở làng Xá Lê, để kết thúc buổi tế, quần chúng còn hô các khẩu hiệu đả đảo bọn cường hào phản động hại nước hại dân.
Từ giữa năm 1937 trở đi, phong trào của Xuân Minh càng thêm sôi nổi. ở hầu hết các làng, những cuộc nói chuyện tuyên truyền sinh hoạt thường xuyên được tổ chức ở những nơi tụ tập đông người (như đám cưới, đam ma, làm nhà, hay giỗ kỵ ở trong họ, v.v..., để động viên quần chúng hăng hái tham gia hoạt động cách mạng. Ngoài ra, tại một số làng như Phong Cốc và Thuần Hậu, các đồng chí cán bộ, Đảng viên chủ chốt còn tổ chức được vài lớp huấn luyện cấp tốc riêng cho phụ nữ, nhờ đó mà nhận thức và lý luận cách mạng của chị em được nâng dần lên. Do vận động, tuyên truyền tích cực, và các hoạt động cụ thể đã đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, cho nên, thời gian này, hội Tương tế ái hữu ở các làng đã thu hút được tuyệt đại bộ phận số người của địa phương tham gia. Đặc biệt, tại các làng Phong Cốc, Xá Lê và Thuần Hậu, ban trị sự của hội Tương tế ái hữu đã vận động quần chúng tập trung số ruộng công điền được chia lại để cày cấy, gây quỹ cho hội. Một ban quản trị (gồm Trưởng ban, thư ký, thủ quĩ và các uỷ viên) được thành lập ra để trực tiếp điều hành việc sản xuất và thu hoạch. Đây là một hình thức hoạt động sáng tạo của cơ sở cách mạng ở Xuân Minh. Từ trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, hình thức làm ăn tập thể sơ khai ra đời, đã có tác dụng tăng cường hơn nữa tinh thần cộng đồng tương trợ và đoàn kết đấu tranh của nhân dân địa phương.
Ngày 7-7-1937, thực hiện chủ trương của tỉnh Đảng bộ lâm thời, cơ sở Đảng của tổng Thử Cốc đã tổ chức một cuộc mít tinh kỷ niệm Quảng Châu Công xã để kêu gọi ủng hộ nhân dân Trung Hóa chống Nhật tại cánh đồng Mã Nung (làng Ngọc Trung). Người diễn thuyết là đồng chí Đỗ Đông Uyên. Cuộc mít tinh này đã có đến hơn 300 người trong tổng đến tham dự (riêng 7 làng của Xuân Minh đã có gần 200 người). Cuộc mít tinh đã có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần quốc tế và làm cho quần chúng thấy rõ nguy cơ nghiêm trọng của chủ nghĩa phát xít thế giới. Sau đó những người dự mít tinh đã tự nguyện đóng góp từ 5 xu đến 1 hào để ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng chiến chống Nhật.
Như vậy, đến cuối năm 1937, phong trào cách mạng của Xuân Minh đã tiến những bước rất vững chắc. Cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng phát triển một cách nhanh chóng và nắm bắt rất đúng chủ trương của Tỉnh Đảng bộ để đưa phong trào đi lên từ thấp đến cao, từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị. Và qua thực tiễn phong trào, đội ngũ cốt cán ở đây được rèn luyện thử thách và ngày càng có thêm kinh nghiệm hoạt động cách mạng, một số đồng chí đã trở thành cán bộ cốt cán của tổng, huyện và tỉnh.
Tháng 12-1937, Đảng bộ Thanh Hoá chính thức bắt được liên lạc với Trung ương Đảng và từ đó trở đi, phong trào cách mạng của tỉnh lại được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ uỷ Trung kỳ. Đó là một điều kiện hết sức thuận lợi và quan trọng để thúc đẩy phong trào cách mạng Thanh Hoá phát triển một cách nhanh chóng, toàn diện hơn.
Để quán triệt và tiếp thu đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, hội nghị Tỉnh Đảng bộ lâm thời mở rộng đã được triệu tập (tại làng Yên Lộ Thiệu Hoá). Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương, hội nghị đã quyết định mở một đợt vận động tuyên truyền cho việc thành lập Mặt trận dân chủ thống nhất ở trong tỉnh, đồng thời đề ra những nội dung hoạt động cụ thể cho cả vùng thành thị, nông thôn, hầm mỏ, xí nghiệp và miền núi, v.v... Hội nghị còn quyết định việc chuyển cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ về Thị xã để đáp ứng kịp thời cho việc chỉ đạo phong trào chung ở trong tỉnh. Từ đây, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ ở tỉnh ta mới thực sự bước sang giai đoạn cao trào.
Tháng 1-1938, ở các làng của Xuân Minh nói riêng và ở tổng Thử Cốc nói chung là một trong những nơi có cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng phát triển nhanh chóng và vững chắc nhất so với các vùng khác ở trong tỉnh. Để đáp ứng với sự đòi hỏi bức thiết và ngày một cao của phong trào, đồng thời để triển khai nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ lâm thời, một cuộc hội nghị cán bộ của tổng Thử Cốc đã được tổ chức tại nhà đồng chí Đỗ Huy Dũng (Thuần Hậu) để bàn biện pháp thống nhất chỉ đạo phong trào cách mạng trong toàn tổng. Sau đó, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành tổng uỷ gồm 13 đồng chí cán bộ cốt cán tiêu biểu của phong trào như các đồng chí: Trịnh Ngọc Điệt (Ngọc Trung), Đỗ Huy Trai, Đỗ Huy Táu, Đỗ Thị Hạm (Thuần hậu), Đỗ Đan Quế, Đỗ Đình Khánh (Xá Lê), Nguyễn Văn Phác, Nguyễn Thị Vần (Phong Cốc), Đỗ Đông Lỡ (Trung Lập), Trịnh Văn Đức (tức Tùng Đức), Trịnh Thị Đức và Trịnh Thị Vân (Long Linh Ngoại).
Sự ra đời của ban chấp hành tổng Thử Cốc đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào ở đây.
Ngày 12 tháng Giêng âm lịch (tức là ngày 11 tháng 2 năm 1939), cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng của các làng ở Xuân Minh và tổng Thử Cốc đã chính thức tham dự cuộc mít tinh lớn tuyên truyền việc thành lập Mặt trận dân chủ do Tỉnh Đảng bộ tổ chức tại làng Chiềng (tức làng Trịnh Xá Yên Định bây giờ). Cuộc mít tinh này còn có sự tham gia của quần chúng ở các huyện Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, tất cả có đến hàng mấy ngàn người mít tinh này, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý thay mặt cho Tỉnh Đảng bộ đứng lên diễn thuyết. Lần đầu tiên, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng của Xuân Minh được tham dự cuộc mít tinh lớn như vậy.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng ở đây. Thực dân Pháp và chính quyền tay sai hoảng sợ, đã vội cử tên tri phủ Phan Thanh Kỷ1 đi hành hạt đến tổng Thử Cốc để xoa dịu và trấn an quần chúng.
Ngày 12-4-1938, tri phủ Phan Thanh Kỷ sẽ chính thức đi hành hạt tới tổng Thử Cốc. Buổi sáng y sẽ dừng lại ở nửa tổng trên (tại đình làng Xá Lê) và buổi chiều dừng lại ở nửa tổng dưới (tại đình làng Phú Hậu, nay thuộc xã Thọ Trường). Biết trước được ý định đó, ban chấp hành tổng uỷ (hay còn gọi là ban cán sự tổng) đã kịp thời họp bàn để đối phó, đồng thời chủ trương tổ chức một cuộc đấu tranh đưa yêu sách đòi quyền dân sinh dân chủ nhân dịp tiếp đón Phan Thanh Kỷ.
Ngay từ buổi sáng ngày hôm đó, đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng của các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Phú Tình, Yên Thọ, Thiên Lộc và Trung Lập đã được huy động đến và tập trung rất đúng điểm qui định. Gần 1.000 người, đủ cả trẻ, già, trai, gái đều xếp hàng hai một cách nghiêm chỉnh từ ngã ba đường ở Xuân Minh đến đình Xá Lê và Mả Ăn Mày thành một đoàn người dài đến hơn 500m. Đứng ở hàng đầu là hai phụ nữ vác một tấm băng với hai khẩu hiệu lớn:
- Đón chào quan tri phủ Phan Thanh Kỷ
- Thực hiện quyền tự do dân chủ
Khoảng 8 giờ sáng, xe tây lộng vàng của tên tri phủ đến cầu Phong Cốc. Từ xa đã nhìn thấy đội ngũ chỉnh tề của đông đảo quần chúng. Phan Thanh Kỷ liền xuống xe đi bộ từ cầu vào đến đình Xá Lê. Đến ngã ba, y ngả ô chào mọi người, còn quần chúng thì chào lại bằng những nắm tay giơ lên. Tri phủ vừa đi vừa mời mọi người vào đình Xá Lê. ở đây, lực lượng quần chúng đứng ở phía tả sân đình, còn bọn tổng lý hương hào thì đứng ở phía hữu sân đình. Đồng chí Đỗ Huy Trinh được phân công đối thoại trực tiếp với Phan Thanh Kỳ. Sau khi tên tri phủ giở trò phủ dụ và trấn an dân chúng, đồng chí Đỗ Huy Trinh thay mặt cho quần chúng tiến lên nói và đề nghị được đọc một bản yêu sách. Trước tình hình đó, Phan Thanh Kỷ đành phải đồng ý để lắng nghe bản yêu sách. Đồng chí Đỗ Viết Chừng đã đứng ra đọc bản yêu sách một cách rất dõng dạc mà nội dung bao gồm những vấn đề chủ yếu như sau:
- Đòi ban bố và thực hiện quyền tự do dân chủ.
- Đòi cải cách hương tục.
- Đòi thanh toán tiền hưng công đại chẩn (tiền công đắp đường từ phủ lỵ Thiệu Hoá lên Cống Quanh, làm từ năm 1937 mà đến nay vẫn chưa được thanh toán).
- Đòi khất thuế lưu đông, v.v...
Bản yêu sách vừa đọc xong thì tất cả quần chúng đều nhất loại đồng thanh hò reo và hoan hô vang dội. Trước khí thế và áp lực của quần chúng, tri phủ Phan Thanh Kỷ phải hứa giải quyết các yêu sách ở đây. Cuộc đấu tranh đòi yêu sách đã kết thúc một cách hoàn toàn thắng lợi trong trật tự, và thắng lợi này đã góp phần làm đà cho cuộc đấu tranh buổi chiều ở nửa tổng dưới thêm khí thế.
Nói chung, đây là cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp đầu tiên được tổ chức một cách rất chặt chẽ với qui mô tương đối lớn trên địa bàn Xuân Minh và tổng Thử Cốc, nhưng cuối cùng vẫn giành được thắng lợi, làm cho khí thế cách mạng của quần chúng càng thêm sôi nổi, đồng thời còn có tác dụng hạ được uy thế của tập đoàn tay sai phản động ở địa phương.
Do kết quả của cuộc đấu tranh này mà chỉ sau đó mấy ngày, các làng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc đều được trả lại số tiền Hưng công đại chẩn, và số tiền đó đã được phát đến tận tay những người đi phu đắp đường trong năm 1937. Ngoài ra, nhà cầm quyền còn phải đồng ý để các làng dự thảo các bản điều lệ cải lương hương tục của địa phương mình để trình duyệt. Kết quả này đã làm cho quần chúng nhân dân hết sức phấn khởi và càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Để chuẩn bị cho việc kỉ niệm ngày Quốc tế lao động (1-5-1938), nhận được chỉ thị của phủ uỷ Thiệu Hoá1, ban chấp hành tổng uỷ tổng Thử Cốc đã triệu tập một cuộc họp đại biểu cốt cán của các làng tại nhà bà Lê Thị Liên (Xá Lê) để bàn cách tiến hành cuộc mít tinh. Cuối cùng tổng uỷ đã quyết định phương án lấy danh nghĩa việc đi xem hang ở núi Khoai (Yên Định) để tập hợp lực lượng quần chúng đến dự cuộc mít tinh.
Thế là, đúng ngày 1-5-1938, cuộc mít tinh kỉ niệm ngày Quốc tế lao động đã được tiến hành một cách thắng lợi. Toàn tổng có đến hơn 300 người đến dự, riêng các làng của Xuân Minh đã có tới trên 100 người. Đồng chí Đỗ Đan Quế được phân công đứng lên diễn thuyết để nói rõ về ý nghĩa của ngày Quốc tế lao động và kêu gọi quần chúng đoàn kết đấu tranh chống phát xít và bọn phản động thuộc địa để đòi tự do, hoà bình và cơm áo, v.v... Sau đó, tất cả mọi người đều nhất loạt hô vang các khẩu hiệu cách mạng. Để kết thúc cuộc mít tinh, đồng chí Nguyễn Văn Phác đã đứng lên hát bài Quốc tế ca. Tiếng hát ngân vang hùng tráng trong hang đá, có tác dụng cổ vũ kích lệ tinh thần cách mạng của mọi người.
Đến đầu tháng 6-1938, trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng của các làng ở Xuân Minh, phủ uỷ Thiệu Hoá quyết định thành lập một chi bộ ghép của 4 làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung2. Và một cuộc đại hội để thành lập chi bộ được tổ chức tại nhà bà Lý Đan (Ngọc Trung) với sự tham gia của các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Nguyễn Văn Phác, Đỗ Huy Trinh, Đỗ Huy Táu, Đỗ Huy Trai (tức Đỗ Anh Tuấn). Đồng chí Hoàng Văn Quế thay mặt phủ uỷ Thiệu Hoá tuyên bố thành lập chi bộ này. Đồng chí Trịnh Ngọc Điệt được cử làm bí thư chi bộ.
Sự ra đời của chi bộ ghép Phong Cốc Xá Lê - Thuần Hậu Ngọc Trung một lần nữa đã đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng Xuân Minh. Sự kiện này càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự lãnh đạo và thống nhất hành động cách mạng giữa các làng với nhau.
Sau thời gian này, thực hiện chủ trương của Tỉnh Đảng bộ và phủ uỷ, nhiều cuộc đấu tranh ở khu vực Xuân Minh lại liên tiếp nổ ra.
Tháng 7-1938, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và ban cán sự tổng, một cuộc vận động làm đơn lấy chữ ký gửi lên phủ đòi khất thuế lưu đông được phát động một cách thật sôi nổi ở các làng của Xuân Minh. Trong lúc đang vận động để lấy chữ ký thì cơ sở Đảng ở đây còn cử đồng chí Đỗ Huy Trai (Đỗ Anh Tuấn) và đồng chí Đỗ Thị Hạm lên tận Bái Thượng để đánh điện xuống phủ và tỉnh xin nhà cầm quyền cho dân được khất thuế sang vụ đông. Phong trào này còn phát triển mạnh mẽ ở các địa phương khác của Thiệu Hoá, Yên Định và các vùng trong tỉnh. Do đó, nhà cầm quyền đã nhượng bộ để dân chúng được khất lại 1/2 số thuế sang vụ đông.
Tiếp theo cuộc vận động đòi khất thuế lưu đông là cuộc đấu tranh đòi miễn giảm sưu thuế. Cuộc đấu tranh này kéo dài cho đến cuối năm 1938. Cơ sở cách mạng ở Xuân Minh cũng vận động được hàng trăm chữ ký phản đối dự án thuế mới để gửi lên toàn quyền Đông Dương và khâm xứ Trung kỳ. ở Xuân Minh và tổng Thử Cốc thuộc tả ngạn sông Chu, từ vụ mùa năm 1937 đến vụ mùa năm 1938 liên tiếp bị thất bát vì nạn lụt lội và hạn hán, cho nên cuộc đấu tranh đòi khất thuế lưu đông, đòi miễn giảm sưu thuế và chống dự án thuế mới đã được quần chúng nhiệt liệt hưởng ứng. ở các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, lực lượng cách mạng còn lôi kéo được một số lý hương tham gia phong trào này.
Đầu tháng 8-1938, cuộc đấu tranh đòi tiền công đắp đê quai xanh của anh em phu ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Phú Tình, Yên Thọ, Thiện Lộc và Trung Lập đã diễn ra quyết liệt tại hiện trường Cống Quanh.
Khi đê quai xanh sắp bị tràn vì mưa lũ, bọn thầu của Pháp đã can thiệp với bọn quan lại ở phủ Thiệu Hoá đưa lính đi huy động gấp dân phu tổng Thử Cốc đến đắp đê để bảo vệ cho công trường Cống Quanh đang thi công dở khỏi bị thiệt hại. Tất cả dân phu ở các làng Xuân Minh và cả làng Trung Lập đều phải nhanh chóng tập trung ở điếm Phong Cốc để xuống hiện trường. Chi bộ Đảng và Ban cán sự liên làng đã thống nhất chủ trương cho anh em phu là phải đấu tranh đòi bọn nhà thầu trả tiền công tại chỗ thì mới làm. Đồng chí Đỗ Đan Quế và một số đồng chí khác được phân công lãnh đạo cuộc đấu tranh này. Đoàn dân khu bắt đầu đi thì bọn lính kéo đến quát tháo ầm ỉ. Một tên cầm roi định đánh đồng chí Đỗ Hữu Ngoan người đi hàng đầu thì đồng chí Đỗ Huy Khuê chạy lại dằng lấy roi và nói: Các anh không có quyền đánh người, vỡ đê đã có nhà thầu lo.... Tất cả mọi người đều dô lên hưởng ứng để phản đối bọn lính. Trước khí thế của quần chúng, chúng đành im lặng để đoàn dân phu tiếp tục đi. Đến công trường Cống Quanh, đồng chí Đỗ Đan Quế thay mặt cho anh em phu đến gặp tên đề lại Bùi Xuân Chữ đòi yêu sách phải trả tiền công ngay thì anh em phu mới làm. Tên đề lại và bọn nhà thầu vẫn làm ngơ trước đề nghị này, cho nên tất cả anh em phu đều ngồi xuống và cương quyết không làm. Thấy tình hình như vậy, tên đề lại Bùi Xuân Chữ lại xoa dịu và hứa với anh em sẽ trình lên tri phủ để giải quyết. Hết buổi, đoàn dân phu vẫn không làm. Đến ngày thứ hai, bọn tri phủ và nhà thầu phải nhượng bộ giải quyết đúng yêu cầu của anh em phu. Thế là, với hành động thống nhất và rất cương quyết, cho nên cuộc đấu tranh đòi trả tiền đắp đê quai xanh tại chỗ của anh em phu đã giành được thắng lợi, làm cho quần chúng rất phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của tinh thần đoàn kết đấu tranh, đồng thời có thêm kinh nghiệm trong những cuộc đấu tranh trực diện, hợp pháp đòi quyền lợi kinh tế sau đó.
Tháng 9-1938, do phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ ở trong tỉnh ngày một lên cao, và trực tiếp là do kết quả của cuộc đấu tranh đưa yêu sách hồi tháng 4-1938 của quần chúng cách mạng tổng Thử Cốc, bọn thống trị buộc phải chấp nhận việc cải lương hương tục của các làng ở đây. Đặc biệt, trong thời gian này, tên công sứ Legredơ và tổng đốc Nguyễn Hy cùng các quan chức cao cấp khác của tỉnh và của phủ đã về tận đình làng Trung Lập để công nhận bản qui ước cải lương hương tục do lực lượng cách mạng ở đây soạn thảo. Đó là một sự kiện quan trọng, có tác dụng cổ vũ rất lớn đến phong trào đấu tranh của nhân dân ở khắp các vùng nông thôn trong huyện và trong tỉnh. Từ đó, phong trào xoá bỏ các hủ tục ma chay, cưới xin, đình đám, tế lễ, xôi cân gà lượt nặng nề, và việc đấu tranh đòi chia lại công điền công thổ, hay việc lập hội giúp đỡ nhau ở các làng của tổng Thử Cốc và Xuân Minh phát triển ngày càng mạnh mẽ và đều khắp hơn trước.
Cuối năm 1938, để đối phó và xoa dịu phong trào đấu tranh đòi cải cách dân chủ và cải thiện dân sinh đang dâng cao trong toàn tỉnh, bọn thống trị đã đưa ra một chiêu bài cải lương mị dân là bầu cử hội đồng hương chính một hình thức dân chủ giả hiệu hòng đánh lừa dư luận quần chúng. Lợi dụng hình thức này, cơ sở Đảng và ban cán sự ở các làng của Xuân Minh đã vận động quần chúng tham gia cuộc phổ thông đầu phiếu để đưa người của cách mạng vào nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hội đồng hương chính. Kết quả, ở Phong Cốc, Xá Lê và Thuần Hậu, lực lượng cách mạng gần như làm chủ toàn bộ trong hội đồng này. Tình hình đó càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phong trào cách mạng ở địa phương.
Đầu tháng 12-1938, lo sợ phong trào đấu tranh ở trong tỉnh có thể bùng nổ mạnh trong dịp kỉ niệm Quảng Châu công xã (ngày 12-12), ở một số nơi, bọn thống trị đã tính cách quản thúc chặt chẽ các chính trị phạm để trấn áp tinh thần của quần chúng. Riêng tại tổng Thử Cốc, bọn chúng đã bày đặt ra thủ đoạn buộc bọn tổng lý và tay sai ở các làng trong tổng làm đơn vu cáo những người hoạt động cách mạng lập hội kín và tổ chức vận động quần chúng chống đối lại nhà cầm quyền để lấy cớ khủng bố phong trào cách mạng ở đây. Ngay sau đó, chúng đã ra lệnh bắt 42 người của tổng (mà phần lớn là các đồng chí ở Xuân Minh). Tại công đường án sát tỉnh Thanh Hoá, mặc dù tất cả những người bị bắt đều không chấp nhận một điểm nào trong bản tố giác của bọn phản động tay sai, nhưng bọn thống trị vẫn ngang nhiên tuyên án 38 đồng chí của ta. Trong số này, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý bị chúng buộc là người cầm đầu, cho nên bị kết án 3 năm tù giam, đồng chí Trịnh Khắc Sản 2 năm tù giam, còn lại là từ 1 năm trở xuống đến tám tháng án treo.
Phải nói rằng, so với các địa phương khác ở trong tỉnh thì cuộc khủng bố của địch lúc này ở tổng Thử Cốc là lớn và sớm nhất. Mặc dù nhiều đồng chí bị bắt, nhưng đội ngũ cốt cán được đào tạo từ những năm trước đó vẫn còn lại khá đông. Các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Đỗ Đan Quế, Đỗ Huy Táu, Đỗ Anh Tuấn, Nguyễn Văn Phác và nhiều đồng chí khác ở lại vẫn tích cực tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng. Đầu năm 1939, Xuân Minh và tổng Thử Cốc vẫn là nơi có phong trào cách mạng phát triển sôi nổi và rất vững chắc. Đội ngũ lãnh đạo ở tổng, ở làng được bổ sung và kiện toàn thêm. Một số đồng chí đã trở thành cán bộ chỉ đạo phong trào của huyện và tỉnh. Thời gian này, lực lượng thanh niên và phụ nữ chiếm số đông trong các tổ chức cách mạng. Đó là một lực lượng nòng cốt hoạt động rất tích cực trong đấu tranh cách mạng ở địa phương. Phong trào vận động quyên góp tiền bạc thuốc men, quà cáp cho các chiến sĩ cách mạng đang bị giam ở nhà tù Thanh Hoá và việc vận động tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong quần chúng là hoạt động nổi bật của chị em phụ nữ lúc này.
Do phong trào của chị em phụ nữ ở Xuân Minh phát triển mạnh và rất tiêu biểu, cho nên tháng 2-1939 cơ sở Đảng Yên Định đã tổ chức một đoàn đại biểu phụ nữ của huyện sang Phong Cốc để gặp gỡ và trao đổi kinh nghiệm hoạt động với tổ chức phụ nữ ở đây.
Ngày 20-4-1939, để thống nhất việc lãnh đạo phong trào cách mạng trong toàn huyện được thuận lợi hơn, với sự chỉ đạo trực tiếp của tỉnh Đảng bộ, hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Thiệu Hoá lần đầu tiên được triệu tập tại làng Yên Lộ (Thiệu Hoá). Đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đại diện cho cơ sở Đảng ở Xuân Minh và tổng Thử Cốc được cử đi dự hội nghị này. Sau khi kiểm điểm đánh giá tình hình trong huyện, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành huyện Đảng bộ, gồm 3 đồng chí, do đồng chí Hoàng Văn Quế làm bí thư. Đây là huyện đầu tiên trong tỉnh thành lập được huyện Đảng bộ.
Đến giữa năm 1939, trước tình hình đế quốc Pháp đang ráo riết, tăng cường chuẩn bị chiến tranh và ra mặt khống chế phong trào cách mạng, Tỉnh Đảng bộ đã quyết định rời ngay cơ quan lãnh đạo ở thị xã về nông thôn (làng Yên Lộ Thiệu Hoá) để đề phòng âm mưu mới của địch. Ngày 19-6-1939, tiếp thu và vận dụng tinh thần nghị quyết của trung ương Đảng, hội nghị đại biểu Tỉnh Đảng bộ lại được tổ chức tại làng Yên Lộ để bàn biện pháp chuẩn bị chuyển hướng hoạt động công khai vào bí mật và quyết định một số phương hướng đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới.
Tại Xuân Minh và tổng Thử Cốc, cơ sở Đảng và ban cán sự ở các làng đã mở một đợt vận động quyên góp tiền bạc để ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng Nhật. Đến ngày 7-7-1939, đoàn đại biểu của Xuân Minh (gồm các đồng chí Đỗ Đan Quế, Đỗ Thị Hạm, Đỗ Huy Trai, Nguyễn Văn Phác, v.v...) sau khi mang số tiền quyên góp được để báo cáo với huyện Đảng bộ thì được huyện cử xuống Thị xã tham dự cuộc mít tinh ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Hoa ở chùa Hội Quản do Tỉnh Đảng bộ tổ chức. Tại cuộc mít tinh, đồng chí Bùi Đạt người lãnh đạo phong trào đấu tranh công khai ở Thị xã đã bị địch bắt. Liền sau đó, Tỉnh Đảng bộ đã phát động một phong trào rộng lớn đòi bọn thống trị phải trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt.
Thực hiện chủ trương trên, cơ sở cách mạng Xuân Minh đã triển khai nhanh chóng việc vận động quần chúng ký vào đơn đòi nhà cầm quyền phải trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt. Chỉ trong mấy ngày, cuộc vận động này đã được sự tham gia hưởng ứng đông đảo của quần chúng. Đồng chí Mai Văn Thìn (làng Thuần Hậu) được cử mang lá đơn với mấy trăm chữ ký của quần chúng trong các làng của tổng để xuống tỉnh gửi lên nhà cầm quyền. Mặc dù phong trào này phát triển mạnh, nhưng bọn thống trị vẫn ngoan cố không trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt.
Nhân dịp đợt kỉ niệm ngày Cách mạng Tư sản Pháp, Tỉnh Đảng bộ chủ trương phát động một phong trào quần chúng sôi nổi để biểu dương lực lượng cách mạng, đồng thời để phản đối bọn phản động thuộc địa phản bội lại tinh thần dân chủ của cuộc đại cách mạng tư sản Pháp đã giành được từ năm 1789 và kêu gọi quần chúng đoàn kết đấu tranh chống khủng bố.
Tại chợ Đu (Thiệu Hoá), một cuộc mít tinh khổng lồ với hàng mấy ngàn người tham dự đã nổ ra đúng vào ngày 14-7-1939. Gần 500 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh có kế hoạch chuẩn bị từ trước đã tập kết nhanh chóng về đình làng Long Linh Ngoại ngay từ đêm hôm đó (13-7-1939) để rạng sáng ngày 14-7 cùng lực lượng cách mạng toàn tổng vượt sông Chu về chợ Đu tham dự cuộc mít tinh với khí thế vô cùng sôi động. Tại chợ Đu, cả một rừng người được sắp xếp thành đội ngũ chỉnh tề rồi kéo về Văn chỉ tổng Xuân Lai để mít tinh, và sau đó thì biến thành cuộc biểu tình tuần hành từ đó về chợ Đu. Đoàn người vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu cách mạng: Đòi phòng thủ Đông Dương, chống khủng bố đàn áp, đòi tự do dân chủ, hoà bình và cơm áo, và các khẩu hiệu hoan nghênh cuộc đại cách mạng tư sản Pháp, hoan nghênh Liên Xô, Trung Quốc, v.v... cuối cùng là khẩu hiệu đòi trả tự do cho đồng chí Bùi Đạt...
Cuộc mít tinh đã kết thúc một cách hoàn toàn trong trật tự. Bọn thống trị đưa lính đến đàn áp nhưng tất cả đều đã phân tán hết, cho nên cuối cùng không một ai bị bắt.
Có thể nói cuộc mít tinh ở chợ Đu cũng như ở chợ Neo (ngày 14-7-1939) là đỉnh cao và cũng là cái mốc cuối cùng báo hiệu sự chấm dứt của thời kỳ cao trào vận động dân chủ ở Thanh Hoá để chuẩn bị bước sang một thời kỳ mới thời kỳ vận động giải phóng dân tộc (1939-1945) vô cùng hiển hách và oanh liệt.
Ở Xuân Minh, từ sau cuộc mít tinh chợ Đu, đồng chí Đỗ Huy Táu một cán bộ đảng viên cốt cán của phong trào cơ sở, sau một đợt ốm nặng đã từ trần (ngày 15-7 âm lịch năm 1939). Chi bộ Đảng và Ban cán sự tổng chủ trương tổ chức một cuộc truy điệu và đưa đám trọng thể tại địa phương. Gần 1.000 cán bộ, đảng viên và quần chúng ở các làng của Xuân Minh và đại biểu của các cơ sở cách mạng trong, ngoài tổng đã đến đây để đưa người đồng chí đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cuộc truy điệu và đưa đám đồng chí Táu đã gây một ấn tượng sâu sắc về tình cảm cách mạng ở trong lòng quần chúng, đồng thời biểu thị sức mạnh đoàn kết chiến đấu của lực lượng cách mạng ở đây. Chính cuộc đưa đám này cũng làm cho bọn thống trị điên cuồng và tức tối.
Ngay sau đó, kẻ thù đã mở một đợt khủng bố ác liệt vào phong trào cách mạng ở trong tỉnh. Trong đợt này, một số đồng chí cán bộ chủ chốt của Tỉnh Đảng bộ đã bị bắt. Tiếp sau đó, ở Xuân Minh, các đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Nguyễn Văn Phác và một số đồng chí khác cùng lần lượt sa vào lưới địch. Tuy phong trào có bị một số tổn thất nhất định, nhưng nhìn chung, do biết kịp thời rút lui vào hoạt động bí mật và biết sử dụng nguyên tắc tổ chức của Đảng, cho nên ở Xuân Minh cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ cốt cán vẫn còn tồn tại vững vàng trong sự bảo vệ và che chở của quần chúng nhân dân.
Như vậy, từ năm 1936-1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào vận động dân chủ ở Xuân Minh đã phát triển một cách mạng mẽ và liên tục. Lực lượng cách mạng ở đây vừa được đào tạo, thử thách trong những năm 1930-1931 và được khôi phục củng cố trong những năm 1931-1935 thì đến đây càng đông đảo và dày dạn kinh nghiệm trong đấu tranh. Từ trong phong trào này, một đội ngũ cán bộ nòng cốt, trung kiên được đào tạo và rèn luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng đã tỏ rõ có nhiều năng lực trong việc tổ chức, vận động quần chúng ra tranh đấu, đồng thời trở thành nguồn bổ sung cho cán bộ chỉ đạo phong trào của tổng, huyện và tỉnh.
Có thể nói đây là một thời kỳ vô cùng sôi động trong cả tỉnh và cả nước. Với một địa phương có 7 làng như Xuân Minh mà đã thấy biểu hiện một cách vô cùng phong phú, sinh động và sáng tạo trong việc vận dụng các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với những hoạt động bí mật và không hợp pháp. Nhờ đó mà hiệu quả thắng lợi thu được trong đấu tranh rất cao và thiết thực so với yêu cầu của cách mạng và quần chúng. Trong thời kỳ này, lực lượng cách mạng của Xuân Minh không chỉ vận động tại chỗ ở địa phương mà còn trở thành một lực lượng cách mạng cơ động trực tiếp tham gia hoặc hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh lớn do Tỉnh Đảng bộ tổ chức ở các địa bàn khác. Chính đây là một trận địa kiên cường vững chắc đã làm cho kẻ thù phải hoảng sợ và đối phó liên tục. Cho nên 3 năm vận động dân chủ ở Xuân Minh là 3 năm chuẩn bị và tạo ra điều kiện, nền móng vững chắc cho thời kỳ vận động giải phóng dân tộc ở địa phương phát triển nhanh chóng và thuận lợi hơn. Và những trang sử vẻ vang, oanh liệt lại được viết tiếp trong những năm 1939-1945.
IV. PHONG TRÀO VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH (1939-1945)
Đầu tháng 9-1939, đại chiến thế giới lần thứ II bùng nổ. Nước Pháp cũng nhanh chóng bước nhanh vào vòng chiến. Vừa lên cầm quyền, Chính phủ phản động Pháp đã thẳng tay đàn áp Đảng cộng sản và phong trào dân chủ ở chính nước Pháp cũng như ở các xứ thuộc địa của Pháp.
Tại Đông Dương, thực dân Pháp đã điên cuồng mở một chiến dịch khủng bố ác liệt vào phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo và xoá bỏ triệt để những thành quả mà nhân dân vừa giành lại được sau mấy năm vận động dân chủ. Để phục vụ cho mục đích chiến tranh đế quốc, thực dân Pháp đã ban bố lệnh tổng động viên để ra sức bắt lính, bắt phu và vơ vét, cướp bóc của cải của nhân dân. Một không khí khủng khiếp và căng thẳng bao trùm lên toàn xứ Đông Dương.
Tháng 9 1940, Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nước ta lại nằm trong tình trạng một cổ hai tròng áp bức của Pháp và Nhật. Với truyền thống kiên cường, bất khuất, nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy chống lại bọn xâm lược (tháng 9-1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 11-1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Tháng 1-1941, lại nổ tiếp cuộc binh biến đô lương).
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới, Trung ương Đảng liên tiếp mở những cuộc hội nghị quan trọng để quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Việt Nam trên cơ sở dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Tháng 11-1939 hội nghị Trung ương lần thứ VI (họp tại Bà điểm Gia Định) đã đề ra việc dự bị nhưng điều kiện bước tới làm cách mệnh giải phóng dân tộc và quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế thay cho mặt trận dân chủ Đông Dương. Tháng 11-1940, hội nghị Trung ương lần thứ VII (họp tại Đình Bảng Bắc Ninh) lại khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của hội nghị Trung ương lần thứ VI là đúng đắn, và đã đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự của cách mạng Đông Dương, đồng thời quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn đã tiến tới thành lập căn cứ địa du kích, lấy vùng Bắc Sơn Võ Nhai làm trung tâm. Đến tháng 5-1941, hội nghị Trung ương lần thứ VIII (họp ở Bắc Bó, Cao Bằng, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc) lại phát triển và hoàn chỉnh các nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI, lần thứ VII về sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị này đã đề ra được nhiều mục tiêu, chính sách một cách cụ thể, nhằm dương cao mạnh mẽ hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc. Hội nghị cũng quyết định thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt và Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước đều lấy tên là Hội Cứu quốc (như Hội Công nhân cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, Hội Nhi đồng cứu quốc, v.v...).
Có thể nói, sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ hội nghị Trung ương lần thứ VI đến hội nghị Trung ương lần thứ VIII là biểu hiện sự tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và chính đó là một trong những nhân tố có tính chất quyết định cho sự thắng lợi của cao trào vận động giải phóng dân tộc ở nước ta mà đỉnh cao là cách mạng tháng 8 năm 1945.
Ở Thanh Hoá, cũng từ tháng 9-1939, trước sự phát triển rầm rộ của phong trào cách mạng, thực dân Pháp đã tiến hành những cuộc truy lùng, bắt bớ rất ráo riết. Bộ máy đàn áp của địch từ tỉnh, huyện đến tận tổng và làng tăng lên chưa từng thấy cùng với những thủ đoạn tàn bạo, xảo quyệt, hòng bóp chết phong trào cách mạng ở tỉnh ta. Mật thám lúc này khá dày đặc, ở khu vực nào cũng thấy có lính dõng và tuần phiên canh gác với những điếm canh chi chít để khống chế và truy lùng cách mạng.
Sự khủng bố của địch trong những tháng cuối năm 1939 đã gây cho Đảng bộ và phong trào cách mạng Thanh Hoá nhiều tổn thất. Hầu hết cán bộ lãnh đạo và đảng viên ưu tú từ tỉnh đến cơ sở đều bị địch bắt. Phong trào cách mạng của tỉnh tạm thời gặp khó khăn và thiếu một sự chỉ huy chung.
Giữa lúc kẻ thù tập trung lực lượng đánh phá dữ dội vào phong trào cách mạng ở trong tỉnh thì tại khu vực Xuân Minh và tổng Thử Cốc, mặc dù một số cán bộ, đảng viên cốt cán bị bắt, nhưng do giữ vững được những nguyên tắc tổ chức của Đảng và kịp thời rút lui vào hoạt động bí mật, cho nên cơ sở Đảng và các tổ chức cách mạng vẫn còn tồn tại khá nguyên vẹn trong sự đùm bọc của nhân dân. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng để cắt nghĩa vì sao phong trào cách mạng của Xuân Minh lại mau chóng được hồi phục, phát triển nhanh chóng và sớm hơn so với một số vùng khác. Trong vòng vây bủa của quân thù, những cán bộ, đảng viên và chiến sĩ cách mạng còn lại của Xuân Minh vẫn bền bỉ, kiên trì vượt qua mọi thử thách khó khăn và bám sát cơ sở để củng cố tổ chức, củng cố phong trào, đồng thời tìm mọi cách để bắt liên lạc với các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh nhằm góp phần củng cố, khôi phục lại Đảng bộ và phong trào cách mạng Thanh Hoá nói chung.
Có thể nói, toàn bộ cơ sở Đảng là lực lượng cách mạng ở Xuân Minh được bảo tồn khá nguyên vẹn trong lúc này đã là một thắng lợi đáng kể. Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là phải nhanh chóng củng cố và giữ vững tinh thần của quần chúng, đồng thời phát động các cuộc đấu tranh chống lại sự khủng bố của địch.
Cuối năm 1939, tại nhà bà Đỗ Thị Hâng (Ngọc Trung) một số cán bộ cốt cán của tổng Thử Cốc (như các đồng chí Đỗ Anh Tuấn, Đỗ Huy Dũng (Thuần Hậu), Nguyễn Xuân Oanh, Đỗ Văn Bảo (Phong Cốc), Đỗ Đan Quế (Xá Lê), Trịnh Văn Đức (Long Linh Ngoại), v.v...) đã tự nhóm họp để bàn biện pháp đối phó với những âm mưu khủng bố của địch, đồng thời cử một số đồng chí đến các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh để tìm cách bắt liên lạc với Đảng cấp trên. Đồng chí Đỗ Đan Quế được cử đi vùng Thọ Xuân, đồng chí Nguyễn Xuân Oanh đi vùng Yên Định, đồng chí Đỗ Anh Tuấn đi vùng Thiệu Hoá. Đứng trước tình hình bọn tay sai chức dịch càng ngày càng lộ rõ bộ mặt phản động và hống hách trắng trợn hơn trước, cho nên hội nghị cán bộ tổng đã đề ra chủ trương hạ uy thế cường hào bằng hình thức cảnh cáo những tên ngoan cố đầu sỏ để củng cố tinh thần quần chúng.
Thực hiện chủ trương trên, cơ sở cách mạng ở các làng của Xuân Minh đã tiến hành nhiều biện pháp có hiệu quả để phân hoá hàng ngũ tay sai ở địa phương và cô lập những tên ngoan cố đầu sỏ. Đặc biệt, ở làng Phong Cốc, các đồng chí cán bộ cốt cán đã tổ chức một cuộc đánh cảnh cáo tên hương kiểm Đỗ Văn Đặc và vận động quần chúng không đến đưa đám ma Đỗ Hữu Khải bố của tên Hào Văn đầu sỏ cường hào. Sau hai vụ này, đồng chí Đỗ Văn Bảo và Đỗ Văn Đam bị địch bắt giam nửa tháng, nhưng kết quả là đã làm cho khí thế của quần chúng được nâng lên, còn bọn cường hào và tay sai chức dịch cũng giảm bớt sự huênh hoang hống hách hơn trước. Phải nói rằng, việc tranh thủ phân hoá trong hàng ngũ tay sai của địch trong thời điểm này ở địa phương là một việc làm cần thiết, có tác dụng quan trọng trong việc góp phần bảo vệ cơ sở cách mạng và phát triển lực lượng trước khi Xuân Minh bước vào thời kỳ đấu tranh sôi nổi, quyết liệt hơn.
Từ cuối năm 1939 đến những tháng đầu của năm 1940, mặc dù các tổ chức quần chúng không được hoạt động công khai như trước, nhưng dưới sự lãnh đạo sâu sát của các đồng chí cán bộ, đảng viên, những hình thức tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong quần chúng vẫn được duy trì và phát triển. Các hội viên ái hữu cũ vẫn bí mật liên lạc, sinh hoạt, đóng hội phí và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào tiền đồ của cách mạng.
Sau mấy tháng đấu tranh chống khủng bố, phong trào ở Xuân Minh và một số vùng trong tỉnh đang có chiều hướng hồi phục và phát triển thì vào tháng 2-1940, xứ uỷ Trung kỳ đã cử đồng chí Đào Duy Dếnh ra Thanh Hoá tìm bắt liên lạc với Đảng bộ ta để truyền đạt nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI. Thông qua đường dây bạn bè, đồng chí Đào Duy Dếnh đã bắt được liên lạc với cơ sở cách mạng ở thị xã và Hoằng Hoá. Cuối tháng 3-1940, tại một cuộc họp được tổ chức tại Bút Sơn (Hoằng Hoá), đồng chí Đào Duy Dếnh đã trực tiếp truyền đạt nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI (11-1939) và trao nhiều tài liệu quan trọng cho Đảng bộ Thanh Hoá. Sau đó, hội nghị còn bàn những biện pháp tuyên truyền và tổ chức để thúc đẩy phong trào cách mạng Thanh Hoá phát triển phù hợp với tình hình mới.
Đến tháng 5-1940, tại nhà riêng của đồng chí Đỗ Đông Uyên ở Thị xã, một cuộc họp được tổ chức, đã thành lập ra ban vận động phản đế tỉnh (gồm các đồng chí Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Văn Bân, Đỗ Đồng Uyên, Nguyễn Chơn, Đỗ Anh Tuấn...) và thảo luận việc phân công bắt liên lạc với các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh để truyền đạt nghị quyết VI của Trung ương và vận động việc thành lập Mặt trận phản đế. Đồng chí Nguyễn Đức Nhuận được cử làm trưởng ban vận động này. Hội nghị còn quyết định việc tìm bắt liên lạc với đồng chí Lê Huy Toán một đồng chí Tỉnh uỷ viên của thời kỳ Mặt trận Dân chủ còn sót lại hiện đang hoạt động tích cực trong việc củng cố phong trào ở vùng Thiệu Hoá, Yên Định để thống nhất hành động.
Sau cuộc họp này, các đồng chí Đỗ Đông Uyên, Đỗ Anh Tuấn (Đỗ Huy Khuê) được phân công về Thiệu Hoá mà trước tiên là ở tổng Thử Cốc để hoạt động với đầy đủ các tài liệu được sao sẵn từ thị xã (như nghị quyết Trung ương lần thứ VI, điều lệ Đảng cộng sản Đông Dương, bản hiệu triệu thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế ĐôngDương, bài báo giải thích hiệp ước Xô - Đức, v.v...). Chỉ trong một thời gian ngắn, các đồng chí đã nhanh chóng thành lập được các ban vận động phản đế ở một số làng như Thuần Hậu, Xá Lê, Phong Cốc, Ngọc Trung và Long Linh Ngoại. Lúc đầu, một số người được kết nạp vẫn còn rất hạn chế vì chỉ chọn lọc những đồng chí trung kiên nhất vừa thử thách sau những tháng vừa qua. Nhưng nhờ có đường lối của nghị quyết Trung ương chỉ dẫn và soi đường, cho nên phong trào cách mạng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc lại có điều kiện thuận lợi để phát triển cả bề rộng, lẫn bề sâu.
Đến đầu tháng 6-1940, ban vận động Mặt trận phản đế cứu quốc Tỉnh đã triệu tập một cuộc họp tại nhà đồng chí Đỗ Huy Khuê (làng Thuần Hậu- Xuân Minh), gồm hơn 10 đại biểu của Thị xã, Hoằng Hoá, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định và Vĩnh Lộc để bàn biện pháp triển khai nhanh chóng nghị quyết Trung ương lần thứ VI. Sau đó, hội nghị đã bầu ra một ban chấp hành Tỉnh uỷ phản đế lâm thời gồm 3 đồng chí: Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Văn Bân, Đỗ Đông Uyên, do đồng chí Nguyễn Đức Nhuận làm Bí thư.
Như vậy, lần đầu tiên, sau những tháng khủng bố ác liệt, tại Xuân Minh, cuộc hội nghị đại biểu của các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh đã được tổ chức và bảo vệ an toàn. Điều đó cũng chứng tỏ sự vững chắc của phong trào cách mạng ở đây. Sau cuộc họp này, cơ sở cách mạng Xuân Minh còn nhận được một số truyền đơn của tỉnh uỷ phản đế lâm thời để gửi đi một số nơi quanh vùng. Kết quả là đã kích thích và cổ vũ được tinh thần của quần chúng.
Cũng thời gian trên, ở Thọ Xuân, đồng chí Trần Hoạt (tức Trần Bảo) cùng một số cán bộ, đảng viên còn sót lại, sau khi khôi phục được các cơ sở cách mạng ở Kim ốc, Phúc Bồi, Nam Thượng và phát triển rộng ra ở một số địa phương khác thì bắt được liên lạc với xứ uỷ Bắc kỳ và được tiếp thu tinh thần của nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI. Sau đó, cơ sở Đảng của Thọ Xuân đã nhanh chóng cho ra đời một tờ báo bí mật lấy tên là Tự do và cuốn sách Những điều cần biết của người cộng sản một tài liệu quan trọng dựa trên tinh thần nghị quyết VI để biên soạn lại nhằm tuyên truyền sâu rộng cho việc xây dựng Mặt trận phản đế cứu quốc của tỉnh nhà.
Bên cạnh đó, những cơ sở cách mạng ở Thiệu Hoá, Yên Định và Vĩnh Lộc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Huy Toán cũng đã mở rộng được sự liên lạc ra các vùng lân cận.
Có thể nói, do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử đặc biệt của thời kỳ khủng bố ở những tháng cuối năm 1939 mà các nhóm cộng sản còn lại của các địa phương trong tỉnh đã hoạt động một cách biệt lập theo hệ thống đường dây liên lạc riêng ở những khu vực rộng hẹp khác nhau. Do đó, mặc dù cơ sở cách mạng ở nhiều nơi trong tỉnh đã được hồi phục, nhưng thực chất vẫn chưa qui được về một mối, cho nên phong trào phát triển vẫn còn rời rạc, lẻ tẻ và mang nhiều tính chất cục bộ địa phương. Tình trạng này vẫn còn tồn tại cho đến cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm 1940. Trong khi đó, lưới kiểm soát của kẻ thù thì vẫn còn dày đặc, và mọi hoạt động cách mạng lúc này vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn.
Cuối tháng 9 1940, do sơ xuất của một đồng chí cán bộ đã để lọt tài liệu vào tay mật thám, cho nên kẻ thù phát hiện được tổ chức bí mật ở Thị xã và tiến hành khủng bố. Các đồng chí Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Văn Bân và một số đồng chí khác đã lần lượt sa vào lưới địch. Đồng chí Đỗ Đông Uyên cũng bị bắt nhưng đã trốn thoát về tổng Thử Cốc để hoạt động. ở Hồ Bái (Yên Định), địch cũng tiến hành một cuộc khủng bố và bắt bớ một số đồng chí trong vụ rải truyền đơn phản đối chiến tranh phát xít và phản đối thực dân Pháp nhường sân bay và cảng Hải Phòng cho Nhật.
Trước tình hình như vậy, một yêu cầu vô cùng cấp thiết được đặt ra lúc này là phải nhanh chóng thống nhất lực lượng và hành động cách mạng trong toàn tỉnh về một mối theo tinh thần nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI thì phong trào mới có thể phát triển mạnh mẽ, sôi nổi và đều khắp được. Trong thực tế thì giữa các nhóm cũng đã bắt đầu có sự liên lạc với nhau và thấy rõ sự cần thiết là phải thống nhất về mặt tổ chức và lực lượng cách mạng thì mới có thể lái phong trào đi đúng quĩ đạo của Đảng. Lúc này, vùng Xuân Minh mà đặc biệt là nhà đồng chí Đỗ Huy Trinh (làng Thuần Hậu) đã trở thành một địa điểm liên lạc chung của các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh.
Thế là đến tháng 11-1940, sau một thời gian tìm hiểu, bàn bạc thống nhất, và lại được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Bùi San Xứ uỷ viên Trung kỳ, một cuộc hội nghị đại biểu các cơ sở Đảng ở trong tỉnh đã được triệu tập chính thức tại nhà đồng chí Đỗ Huy Kính (làng Thuần hậu, tổng Thử Cốc, huyện Thiệu Hoá) để thống nhất về mặt tổ chức và lực lượng cách mạng theo tinh thần của nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI. Hội nghị đã đề ra việc củng cố, phát triển Đảng và việc đẩy mạnh phong trào phản đế cứu quốc trong toàn tỉnh với sự chú trọng đặc biệt vào việc xây dựng các đoàn thể phản đế cứu quốc và tự vệ phản đế cứu quốc. Để tiến tới thành lập Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ, hội nghị đã cử ra một ban cán sự gồm 3 uỷ viên, do đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.
Hội nghị này được lực lượng cách mạng Xuân Minh mà trước hết là trực tiếp là ở làng Thuần Hậu bảo vệ an toàn. Đây là một thắng lợi to lớn và là một bước tiến mới của phong trào cách mạng Thanh Hoá. Chính trong những ngày tháng ấy, cơ sở cách mạng Xuân Minh cũng đã đóng góp một phần đáng kể vào việc thống nhất của tổ chức và lực lượng cách mạng trong toàn tỉnh. Tại đây, phong trào phản đế cứu quốc ở Xuân Minh và các địa phương trong tỉnh đã thực sự bước sang một giai đoạn cực kỳ sôi nổi và oanh liệt.
Sau hội nghị tháng 11-1940, Ban cán sự tỉnh quyết định chuyển cơ quan in về đóng tại khu vực Xuân Minh, và tại đây, tờ báo Tự do của cơ sở Đảng Thọ Xuân được tiếp tục ấn hành thành cơ quan ngôn luận của Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh. Trong thời gian ở Xuân Minh, cơ quan in của Mặt trận phản đế tỉnh mặc dù phải chuyển địa điểm từ làng này đến làng khác, nhưng ở đâu cũng được bảo vệ một cách an toàn và chu đáo. Nhiều cán bộ, Đảng viên và quần chúng ở các làng Thuần Hậu, Xá Lê, Phong Cốc, Phú Tình và Thiên Lộc đã tự nguyện ủng hộ tiền bạc, thóc gạo và các phương tiện cần thiết để phục vụ cơ quan in. Cũng do cơ quan in của tỉnh đóng ở địa phương, cho nên lực lượng cách mạng ở các làng của Xuân Minh đã sớm nắm bắt được các đường lối chủ trương của Đảng để kịp thời hướng dẫn mọi hoạt động đi đúng quĩ đạo và phát triển nhanh chóng.
Cũng từ cuối năm 1940 trở đi, khu vực Xuân Minh đã trở thành một địa bàn cách mạng trọng yếu và nơi đứng chân vững chắc của Đảng bộ tỉnh nhà. Nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo của tỉnh, huyện đã thường xuyên qua lại đây để hoạt động và liên lạc với nhau, đồng thời trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng của Xuân Minh phát triển một cách toàn diện và vững chắc.
Đầu năm 1941, các hội nông dân phản đế cứu quốc, thanh niên phản đế cứu quốc, phụ nữ phản đế cứu quốc ở tất cả các làng đều đã hình thành và phát triển. Riêng làng Thuần Hậu, Xá Lê, Phong Cốc, Hội thiếu nhi phản đế cứu quốc cũng được tổ chức và hoạt động rất tích cực. ở làng nào cũng thành lập được lực lượng tự vệ trên cơ sở chọn lọc những hội viên phản đế cứu quốc trung kiên và hăng hái. Đặc biệt, tại các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, lực lượng tự vệ đã có từ 30-40 người và được biên chế thành một trung đội.
Sự ra đời của lực lượng tự vệ phản đế cứu quốc lúc này là một động lực và hậu thuẫn quan trọng để thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh mẽ. ở các làng, quần chúng nhân dân đã phấn khởi và tự nguyện đóng góp tiền bạc, thóc gạo, quần áo, vũ khí để trang bị cho tự vệ. Mặc dù vừa mới ra đời nhưng lực lượng tự vệ Xuân Minh đã hoạt động rất tích cực và có hiệu quả trong việc canh gác các hội nghị bí mật của tỉnh, của tổng và của làng, hoặc liên lạc, đưa đón bảo vệ các cán bộ cách mạng trong và ngoài địa phương.
Cuối tháng 1-1941, tại nhà bà Trịnh Thị Hâng (tức bà Cựu Đan) Ngọc Trung, hội nghị thành lập ban tổng uỷ phản đế cứu quốc của tổng Thử Cốc đã được tổ chức. Các đồng chí Đỗ Anh Tuấn, Đỗ Huy Dũng, Đỗ Đan Quế, Đỗ Văn Bảo, Trịnh Văn Hoằng, Trịnh Khắc Chuỷ và một số đồng chí khác đã được bầu vào tổng uỷ để lãnh đạo phong trào ở các làng trong tổng.
Tháng 2-1941, sau khi nhận được Thông cáo khẩn cấp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và được tiếp thu tinh thần nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VII (11-1940) về vấn đề hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa thì hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh đã được triệu tập chính thức tại nhà đồng chí Nguyễn Xuân Oanh, làng Phong Cốc. Một lần nữa, cơ sở cách mạng Xuân Minh lại vinh dự được chọn làm địa điểm cho hội nghị lịch sử quan trọng này. Một số đồng chí cán bộ chủ chốt đại diện cho cơ sở cách mạng của Xuân Minh cũng được tham dự hội nghị.
Sau hai ngày làm việc, hội nghị đã quyết định phát động một phong trào đấu tranh rộng lớn trong toàn tỉnh để hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ với nội dung chống thuế, chống bắt phu, bắt lính. Hội nghị còn quyết định việc xây dựng và mở rộng vành đai căn cứ địa cách mạng ở các vùng ven rừng núi từ đông bắc đến tây nam tỉnh, tiến tới thành lập chiến khu cách mạng để chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ đến. Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ gồm 11 đồng chí, do đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.
Hội nghị Phong Cốc đã trở thành một sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển to lớn của phong trào cách mạng Thanh Hoá. Từ đây, cao trào vận động phản đế cứu quốc của tỉnh ta bắt đầu dâng cao chưa từng thấy.
Đóng góp cho sự thành công của hội nghị, cơ sở cách mạng Xuân Minh mà trực tiếp là làng Phong Cốc đã tỏ rõ là một chỗ đứng chân vững chắc của Đảng. Trong điều kiện hoạt động bí mật, cán bộ, đảng viên, tự vệ và quần chúng cách mạng ở đây đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ đưa đón, bảo vệ và phục vụ các đại biểu được an toàn, chu đáo trong thời gian hội nghị tiến hành tại địa phương.
Từ sau hội nghị Phong Cốc (2-1941), phong trào cách mạng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc càng có thêm những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Các đồng chí cán bộ thoát ly của tỉnh liên tiếp về đây để chỉ đạo trực tiếp phong trào cho đến tận từng làng. Từ tháng 2 đến tháng 6-1941, các tổ chức phản đế cứu quốc đã phát triển rộng khắp ở tất cả 7 làng. Lúc này, sự tham gia tích cực vào tổ chức và hoạt động cách mạng của chị em phụ nữ đã trở thành phổ biến. Một số chị em đã tỏ rõ năng lực hoạt động của mình trong chỉ đạo phong trào và trong việc vận động quần chúng ra tranh đấu, v.v... ở các làng, lực lượng tự vệ, ngày càng được bổ sung thêm nhiều đội viên trung thành và hăng hái. Riêng làng Phong Cốc, Thuần Hậu và Xá Lê, do con số tăng nhanh, cho nên lực lượng tự vệ đã được biên chế thành đại đội, còn ở các làng khác thì chỉ có một trung đội. Sự ra đời, phát triển và hoạt động của lực lượng tự vệ đã làm cho khí thế của phong trào ở địa phương lên rất cao. Đêm đêm, tự vệ của các làng đều tổ chức luyện tập quân sự, thật sôi động. Các làng như Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê còn tìm các địa điểm bí mật để tổ chức luyện tập cả ban ngày. Việc trang bị và ủng hộ cho lực lượng tự vệ cũng được quần chúng hưởng ứng rất đông đảo.
Lúc này, tổ chức tuần phiên của chính quyền địch ở các làng chỉ còn là hình thức vì hầu hết đều là người của lực lượng cách mạng cài vào. Các đội tự vệ đã lợi dụng tổ chức này hoạt động và canh gác công khai để bảo vệ cán bộ và cơ sở cách mạng ở địa phương. Ngoài ra, sự phân hoá chính quyền tay sai ở các làng còn được triển khai rất hiệu quả. Một số lý hương được giác ngộ, thấy khí thế của quần chúng lên cao cũng ngả về phía cách mạng, một số khác thì lừng khừng nằm im và không dám dở hành động gì để chống đối lại. Trong hoàn cảnh lúc này, việc vận dụng sách lược mềm dẻo để phân hoá, tranh thủ hoặc trung lập hàng ngũ tay sai địch và sử dụng các hình thức hoạt động hợp pháp sẵn có là một biểu hiện đúng đắn, sáng tạo của lực lượng cách mạng Xuân Minh, và điều ấy cũng góp phần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phong trào tại địa phương.
Như vậy, từ tháng 1-1941 trở đi, bên cạnh việc củng cố, phát triển các đoàn thể cứu quốc và lực lượng tự vệ, cả 7 làng của Xuân Minh đều đã phát động được phong trào hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ... khởi nghĩa thật sôi nổi. Nhiều cuộc họp tuyên truyền việc ủng hộ mặt trận phản đế cứu quốc, ủng hộ tự vệ đội và kêu gọi chống bắt phu, bắt lính, chống quốc trái, lạc quyên, chống sưu cao thuế nặng được tổ chức liên tiếp và sâu rộng ở các làng. Truyền đơn cách mạng của cơ quan in của Tỉnh Đảng bộ đóng ở đây được phân phát rải đi khắp nơi. Tín phiếu cứu quốc do Tỉnh Đảng bộ phát hành thời gian này cũng được đông đảo quần chúng Xuân Minh hưởng ứng.
Đến tháng 5-1941, để phục vụ mục đích chiến tranh, bọn thống trị đã thực hiện việc tăng sưu thuế một cách gay gắt. Chính sách phản động đó đã gây nên sự bất bình mới cho nông dân cả tỉnh. Với kinh nghiệm đấu tranh chống thuế trong thời kỳ vận động dân chủ, một phong trào đòi miễn giảm sưu thuế, đòi khất thuế lưu đông được phát động và diễn ra quyết liệt ở nhiều địa phương trong tỉnh. Tại Xuân Minh, phong trào này bùng lên nhanh chóng ở tất cả các làng và được quần chúng hưởng ứng rất nhiệt liệt. Những hình thức phổ biến lúc đầu là làm đơn lên nhà cầm quyền kêu mất mùa và đòi hoãn, hoặc giảm thuế. ở một vài làng, quần chúng cách mạng còn lôi kéo được một số lý hương, địa chủ và phú nông tham gia phong trào này. Khi bọn thống trị đã bắt đầu có sự phản ứng thì phong trào chống thuế lại diễn ra ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. ở làng Phong Cốc, Xá Lê khi binh lính về làng để đốc thuế thì quần chúng đều tuyên bố công khai không nạp thuế. ở làng Thuần Hậu, quần chúng còn đem tất cả số thuế đã thu được để nhập vào quĩ cứu quốc của địa phương. Được sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng tự vệ, phong trào chống thuế của quần chúng đã làm cho bộ máy chính quyền tay sai tại địa phương gần như bị tê liệt.
Hoảng hốt trước sự lớn mạnh của phong trào quần chúng và cay cú về sự bất lực của việc thu vét sưu thuế ở nhiều địa phương, bọn thống trị lồng lộn, điên cuồng điều động binh lính tiến hành những cuộc truy lùng, bắt bớ, để khám phá, triệt hạ các cơ sở cách mạng, đồng thời dở trò ức hiếp, đánh đập và cướp giật tài sản của nhân dân. Mặc dù vấp phải sự phản kháng của kẻ thù, nhưng phong trào chống thuế ở Xuân Minh và nhiều nơi trong tỉnh vẫn diễn ra ngày càng rộng lớn và sôi nổi hơn. Về hình thức thì đây là một phong trào đấu tranh kinh tế, nhưng thực chất lại mang tính chất chính trị sâu sắc, vì trong thực tế diễn ra, phong trào này đã tập hợp được đông đảo quần chúng nông dân đứng lên trực tiếp đánh thẳng vào chính sách thống trị phản động của kẻ thù. Và qua kết quả của phong trào đấu tranh chống thuế thì quần chúng càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đoàn kết chặt chẽ bên nhau trong cùng một tổ chức là mặt trận phản đế cứu quốc. Tuy nhiên, ở một số cơ sở cách mạng, với khí thế phong trào đang lên, đã biểu hiện một số tư tưởng tả khuynh và chủ quan khinh địch như hoạt động một cách quá công khai mà xem nhẹ những nguyên tắc hoạt động bí mật, do đó đã dẫn đến việc bộc lộ lực lượng hơi sớm để cho địch có thể tiến hành khủng bố trong lúc về tổ chức, về phong trào đang đòi hỏi được sự củng cố vững chắc hơn.
Ở Xuân Minh, do nguyên tắc hoạt động bí mật vẫn được giữ vững và biết kết hợp một cách khéo léo với các hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp, cho nên từ cuối tháng 5-1941 trở đi, mặc dù bọn thống trị đã đến lùng sục ở một số làng, nhưng về tổ chức và phong trào vẫn được giữ vững và không bị tổn thất gì đáng kể.
Thời gian này, cán bộ, đảng viên ở một số cơ sở cách mạng của huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá là những nơi đầu tiên trong tỉnh bị địch khủng bố đều thoát ly về vùng Xuân Minh. Và tại đây, các cán bộ cách mạng lại tiếp tục có điều kiện để hoạt động và đều được bảo vệ một cách an toàn, chu đáo. Chính vì thế mà trong hội nghị Tỉnh uỷ (6-1941), ở làng Phúc Tĩnh (Yên Định), sau khi kiểm điểm, đánh giá lại phong trào và uốn nắn lại những lệch lạc của phong trào, đồng thời quyết định việc triển khai xây dựng căn cứ địa tại các vùng từ đông bắc đến tây nam để tiến tới thành lập chiến khu cách mạng thì Xuân Minh vẫn là nơi được chọn làm địa điểm cho đại hội Mặt trận phản đế cứu quốc của toàn tỉnh.
Cuối tháng 6-1941, hơn 60 đại biểu ở các cơ sở cách mạng trong toàn tỉnh đã tập trung về làng Xá Lê1 (Xuân Minh) để tham dự cuộc đại hội Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hoá. Đại hội đã kiểm điểm lại việc thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh (2-1941) và nhất trí thông qua chủ trương xúc tiến nhanh chóng việc xây dựng vành đai căn cứ địa cách mạng, phát triển mạnh mẽ lực lượng vũ trang. Cuối cùng, đại hội đã bầu một ban chấp hành Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh (lúc đó gọi là Tỉnh uỷ phản đế) do đồng chí Trịnh Ngọc Phước làm Bí thư.
Sự thành công của đại hội Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh lúc này là biểu hiện sự lớn mạnh của phong trào phản đế cứu quốc Thanh Hoá, đồng thời cũng chứng tỏ sự hưởng ứng tích cực khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ theo tinh thần Thông cáo khẩn cấp của Ban thường vụ Trung ương Đảng ở tỉnh ta đã trở thành một hiện thực rất đáng kể. Một lần nữa, trong điều kiện kẻ thù đang tiến hành những cuộc lùng sục và vây ráp để đánh phá phong trào cách mạng ở các địa phương trong tỉnh thì khu vực Xuân Minh vẫn là nơi đứng chân vững chắc của Đảng bộ tỉnh nhà, cán bộ, Đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh đã bảo vệ an toàn và nuôi nấng chu đáo hơn 60 đại biểu về dự cuộc đại hội này. Có thể nói, đây là một cuộc đại hội bí mật lớn nhất từ trước đến giờ. Lực lượng tự vệ Xuân Minh qua thử thách càng có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ cán bộ và các hội nghị quan trọng ở địa phương mình. Ngay sau đó, tại nhà bà Lê Thị Liên (Xá Lê) cuộc hội nghị cán bộ của tổng Thử Cốc cũng được triệu tập cấp tốc để bàn biện pháp, triển khai nghị quyết của đại hội này.
Đầu tháng 7-1941, tại hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá, binh lính địch vẫn tiếp tục những cuộc truy lùng và bắt bớ suốt ngày đêm. Quần chúng cách mạng ở những nơi đó đã bắt đầu bị o ép nặng nề. Trước tình hình đó, Đảng bộ Thanh Hoá vẫn quyết định tiếp tục đẩy mạnh mọi hoạt động theo phương án đã định. Việc xây dựng chiến khu Ngọc Trạo được xúc tiến khẩn trương và được phổ biến kịp thời xuống tận các cơ sở cách mạng để có kế hoạch chi viện và phối hợp nhịp nhàng.
Ở Xuân Minh, do được sự chỉ đạo sát sao và trực tiếp của các đồng chí cán bộ tỉnh cho nên đã kịp thời hạn chế và ngăn chặn được những khuynh hướng công khai, manh động tại các làng. Chấp hành nghiêm chỉnh thông cáo của Tỉnh uỷ gửi các đồng chí cứu quốc trong tỉnh, tất cả mọi lực lượng và cơ sở cách mạng của Xuân Minh đã rất chú trọng đến những nguyên tắc hoạt động bí mật, đồng thời tiếp tục củng cố lực lượng tự vệ và chọn lọc những người hăng hái, trung kiên nhất để tiến tới việc thành lập các tiểu tổ du kích. Tất cả các đồng chí bị lộ diện lúc này đều được lệnh thoát ly sang hoạt động ở vùng Yên Định và tham gia đi xây dựng chiến khu Ngọc Trạo, một số khác lại được chọn làm cán bộ chỉ đạo phong trào và giao thông liên lạc cho tỉnh, còn những đồng chí chưa bị lộ diện thì vẫn bám sát cơ sở để tiếp tục củng cố tổ chức và thúc đẩy phong trào.
Thời gian này, một cuộc họp gồm tất cả các đồng chí cán bộ chủ chốt của các làng trong khu vực Xuân Minh đã được tổ chức tại làng Thuần Hậu với sự tham dự của các đồng chí cán bộ của Tỉnh như đồng chí Trịnh Ngọc Phước, Ba Dốt, Lê Xuân Tại để bàn biện pháp ngăn chặn những âm mưu khủng bố của địch và thống nhất chủ trương đánh tháo cho những người cán bộ bị địch bắt.
Ngày 8/7/1941 (tức là ngày 14/6 âm lịch) địch bắt được đồng chí Đỗ Huy Chúc ở làng Thuần Hậu và khám phá cơ quan in của Tỉnh ở nhà đồng chí Tuyênh (Xá Lê)... Cương quyết không để cán bộ và tài liệu rơi vào tay địch, nhận được lệnh của cấp trên, lực lượng tự vệ của cả 3 làng Thuần Hậu, Xá Lê và Phong Cốc đã nhanh chóng triển khai đội hình để thi hành nhiệm vụ. Kết quả là đã đánh tháo được đồng chí Đỗ Huy Chúc, nhưng bàn in và một số tài liệu thì bị để trật mất vì địch lại mang đi theo đường ra Phong Lai để theo đường sông xuống Thiệu Hoá.
Ngay 11 giờ trưa ngày hôm sau (9-7-1941), các đồng chí trong ban cán sự và những đồng chí cán bộ chỉ huy của lực lượng tự vệ làng Phong Cốc đã tổ chức một cuộc họp tại Bái Tham Biểu để rút kinh nghiệm về cuộc đánh tháo vừa qua và đề ra những biện pháp để đối phó với những âm mưu mới của địch. Cuộc họp vừa tan thì lại có tin là địch lại bắt được các đồng chí Nguyễn Văn Thống, Đỗ Viết Phượng (Phong Cốc) và đồng chí Đỗ Đình Khiêu (Xá Lê). Thế là đúng 2 giờ chiều ngày hôm đó, trận địa đánh tháo của lực lượng tự vệ làng Phong Cốc được bố trí hết sức chu đáo dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Đỗ Văn Niết và đồng chí Đỗ Hữu Ngoan. Lúc này, một bộ phận được phân công mai phục ở rãnh Cù Quỷnh (đường đi xuống Nỗ Đào) và một bộ phận lại được phân công mai phục ở rãnh Chùa Con (đường đi Phong Lai), còn đồng chí đại đội trưởng tự vệ Đỗ Văn Niết thì cầm hiệu lệnh và đứng ở Bái Tham Biểu quan sát tình hình địch để chỉ huy. Đến 3 giờ chiều, thấy bọn lính với đầy đủ khí giới giải ba đồng chí Nguyễn Văn Thống, Đỗ Viết Phượng, Đỗ Đình Khiêu đi theo đường cái lớn để ra thẳng làng Thạc thì đồng chí Đỗ Văn Niết thổi ba hồi tù và báo động. Tiếng tù và vừa dứt thì tất cả lực lượng tự vệ và đông đảo quần chúng chạy lên đường chặn đứng bọn lính lại. Chị Đỗ Thị Khoan được lệnh cầm liềm cắt dây trói cho hai đồng chí Nguyễn Văn Thống và Đỗ Viết Phượng chạy thoát (còn đồng chí Đỗ Đình Khiêu vì đang ốm, không thể dậy được). Trước sự áp đảo của lực lượng quần chúng và tự vệ, bọn lính run sợ không giám chống cự lại. Sau đó, lực lượng đánh tháo đã được phân tán một cách nhanh chóng đi nơi khác.
Ngay tối hôm đó, dưới sự chủ trì của đồng chí Trịnh Ngọc Phước và đồng chí Ba Dốt, một cuộc họp với tất cả cán bộ và lực lượng tự vệ cốt cán được triệu tập tại Bái Đình để rút kinh nghiệm về cuộc đánh tháo này. Hội nghị đều nhất trí nhận định kẻ địch thế nào cũng quay lại đàn áp và khủng bố, cho nên đã quyết định những đồng chí bị lộ diện sẽ tiếp tục thoát ly sang những cơ sở cách mạng khác để hoạt động, còn những đồng chí khác ở lại địa phương phải tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống lại âm mưu khủng bố của địch. Cuộc họp kéo dài đến gần sáng vẫn chưa kết thúc. Sợ lộ, tất cả đều rút vào chùa để họp tiếp.
Đến 3 giờ chiều ngày 10/7/1941, phát hiện có cán bộ đang ở trong chùa Phong Cốc, địch huy động hàng trăm binh lính và tuần phu các nơi đến bao vây dày đặc. Trước tình thế ấy, các đồng chí lãnh đạo quyết định mở một đường máu để thoát khỏi sự vây bủa của quân thù. Một số đồng chí từ trong chùa nói vọng ra để kêu gọi binh lính và tuần phiên không được làm tay sai cho đế quốc để hại nước hại dân, rồi tất cả đều dương vũ khí chạy thẳng ra ngoài. Bọn lính và tuần phiên hoảng sợ, vội tránh rạt ra. Cán bộ và tự vệ từ chùa Phong Cốc chạy ra phía cây Trôi làng Trung Lập, rồi lại rẽ xuống làng Ngọc Trung. Nhưng kịp phát hiện ra mấy chục lính và tuần phiên đang phục kích ở đấy cho nên tất cả đều quyết định rút nhanh xuống làng Thuần Hậu và vừa chạy vừa hô anh em tự vệ của làng Thuần Hậu ra cứu viện. Lúc này, tiếng trống, tiếng mõ báo động khắp các làng rất náo động. Hàng trăm binh lính và tuần phiên từ Phong Cốc, Trung Lập, Ngọc Trung, Xá Lê, v.v... đổ dồn về làng Thuần Hậu để vây bắt cán bộ. Nhưng tại đây, hầu hết cán bộ và tự vệ từ làng Phong Cốc chạy đến đều được quần chúng cách mạng của làng Thuần Hậu che chở và bảo vệ cho nên đã thoát khỏi được sự vây bắt của địch. Trong số đó, chỉ có đồng chí Nguyễn Văn Hồng và Đỗ Viết Phượng vì chạy ra khỏi làng Thuần Hậu cho nên đã bị sa vào lưới của địch.
Thế là cuộc vây bắt lớn và tương đối qui mô đầu tiên của địch để vây bắt cán bộ cách mạng ở khu vực Xuân Minh đã bị thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng quần chúng nhân dân ở đây rất trung thành với Đảng và cách mạng.
Ngay sau đó, tất cả những đồng chí bị lộ diện đều thoát ly sang những cơ sở cách mạng khác để tiếp tục hoạt động.
Ngày 11 tháng 7-1941, sau cuộc vây bắt thất bại ở Phong Cốc và Thuần Hậu, bọn thống trị vô cùng điên cuồng và tức tối. Chúng đã tức tốc huy động mấy trăm binh lính và hàng ngàn tuần phu ở các nơi đổ dồn về Xuân Minh để tiến hành một cuộc khủng bố trắng một cách khốc liệt. Với âm mưu tiêu diệt một sào huyệt cách mạng, chúng đã không tiếc tay trong việc biến nơi đây thành một vành đai trắng và cuộc triệt hạ xóm làng đã diễn ra thật kinh khủng. ở các làng Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu và Ngọc Trung, chúng đã ra lệnh cho binh lính và tuần phu chặt phá hết tất cả các luỹ tre, cây cối, bờ rào và những nơi rậm rạp, làm cho làng xóm trở nên quang lang và trơ trụi. Tất cả các đường, chúng đều cho thiết lập các điếm canh và bốt gác để khống chế những người qua lại. Ban ngày, chúng tiến hành những cuộc lùng sục, bắt bớ, còn ban đêm thì thực hiện lệnh giới nghiêm. Một không khí khủng bố phát xít và tàn bạo bao trùm khắp Xuân Minh. Trong những ngày này chúng đã gây ra biết bao nhiêu là tội ác. Để trả thù đối với những gia đình có người hoạt động cách mạng, chúng đã trắng trợn sách nhiễu, cướp đoạt tài sản, thóc gạo, trâu, bò, lợn, gà,... một cách không thương tiếc, và thậm chí còn cho binh lính và phu phen ở lỳ hàng tuần, hàng tháng để bắt gia đình phải lo cung phụng và hầu hạ đủ đường. Cao hơn nữa là dỡ nhà, dỡ cửa của nhân dân và đóng cọc vào mồ mã, hay đập bài vị của cha mẹ, tổ tiên của các đồng chí hoạt động cách mạng, v.v...
Sau một đợt tàn phá, triệt hạ và cướp bóc thẳng tay ở khu vực Xuân Minh, địch đã nhanh chóng cho thiết lập một đồn lính quy mô tại làng Phong Cốc nhằm khống chế phong trào cách mạng của tổng Thử Cốc và 3 huyện Thọ Xuân Thiệu Hoá - Yên Định. Đồn được đặt ngay sát trục đường giao thông liên huyện. Đề đốc Nguyễn Văn Quảng con nuôi tên khâm xứ Xa ten, là một tên ác ôn có nhiều kinh nghiệm trong việc khủng bố cách mạng và đã từng có nhiều nợ máu trong việc tàn sát các chiến sĩ Xô Viết Nghệ Tĩnh thời kỳ 1930-1931 đã được điều về đây để chỉ huy trực tiếp.
Đồn Phong Cốc là một đồn lớn và khá quy mô. Đồn rất cao và có 3 tầng, đứng ở trên đó có thể quan sát được toàn tổng. ở mỗi tầng đều có lỗ chĩa súng ra như kiểu lô cốt. Xung quanh đều có giao thông hào và được rào kín bằng mấy lớp dây thép gai và chông chà bằng tre. Hai bên đồn là nhà ở của binh lính và các kho vũ khí, lương thực, thực phẩm. Dựa vào việc làm đồn, bọn đề Quảng, đội Thiệu , cai Thịnh đã cướp đoạt biết bao tài sản và của cải của nhân dân Xuân Minh1.
Trong những ngày đóng đồn ở đây, bọn chúng đã cho tăng cường thêm bộ máy tay sai ở địa phương (như tăng quyền hạn cho chức tuần chấp, khôi phục lại hội đồng đại hào mục, lập thêm chức đoàn xã và gia tăng đội hương binh, v.v...). Để khống chế lực lượng cách mạng, đồng thời khôi phục và phát triển các tập tục cũ như tế lễ, ma chay, đồng bóng, ăn uống, khao vọng, cờ bạc, rượu chè, v.v... để ru ngủ và đầu độc nhân dân. Ngoài ra, chúng còn tìm cách mua chuộc, lôi kéo một số phần tử thuộc tầng lớp trên làm mật thám chỉ điểm để rình bắt cán bộ cách mạng. Lúc này, bọn tay sai phản động ở các làng ngóc đầu dậy (như Hào Văn, Tuần Chuyện, Lý Dong, Hào Bồng, Hào Thác, Lý ốc, Lý Cán, Tuần Thừu, v.v...) được bọn thống trị tin dùng đã ra sức tìm cách chống phá cách mạng. Để thực hiện âm mưu tách các chiến sĩ cách mạng ra khỏi sự che chở và bảo vệ của nhân dân, chúng đã doạ nạt, đánh đập, và khống chế chặt chẽ những gia đình có người thoát ly, đồng thời cưỡng bức những người thân nhân như bố, mẹ, vợ, con đi khắp các nơi tìm gọi cán bộ ra đầu thú. Nhưng nói chung, tất cả những âm mưu của bọn chúng đều thất bại và không thể nào bóp chết được phong trào cách mạng ở đây.
Đứng trước sự đàn áp và khủng bố ác liệt của kẻ thù, các chiến sĩ cách mạng Xuân Minh vẫn bám sát cơ sở để duy trì tổ chức, duy trì phong trào và củng cố tinh thần của quần chúng. Lúc này, mặc dù một số đồng chí cán bộ của địa phương tiếp tục bị địch bắt, nhưng nhìn chung, lực lượng cách mạng vẫn còn tồn tại trong sự bảo vệ và che chở của quần chúng nhân dân. Giữa lúc kẻ thù đang tiến hành lùng sục và bắt bớ ngày càng ráo riết hơn, cho nên việc hoạt động rầm rộ công khai lúc này chỉ là sự tự sát và làm suy yếu phong trào. Vì vậy, ở trong tất cả các làng của Xuân Minh, các chiến sĩ cách mạng còn lại đều rất chú trọng đến những nguyên tắc hoạt động bí mật để giữ vững lực lượng, đồng thời tiếp tục bố trí cho những đồng chí bị lộ diện thoát ly khỏi địa phương để hoạt động trên những địa bàn mới, và trong thực tiễn, các đồng chí này cũng đã đóng góp một phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố phong trào của các địa phương.
Giữa tháng 8-1941, đồng chí Trịnh Ngọc Phước đã bí mật trở lại Xuân Minh để phát động việc tiếp tế, ủng hộ và đưa người tăng cường cho chiến khu Ngọc Trạo. Mặc dù trong điều kiện đang bị kẻ thù kìm kẹp và vây riết, nhưng quần chúng cách mạng ở đây vẫn tích cực ủng hộ tiếp tục cho chiến khu những thứ cần thiết như tiền bạc, quần áo, thuốc men, địa bàn, đèn pin, vũ khí, v.v... Lúc này, một số chiến sĩ cách mạng của Xuân Minh cũng đã có mặt tại chiến khu Ngọc Trạo (trong đó có cả chiến sĩ nữ như đồng chí Nguyễn Thị Mà) và những chiến sĩ còn lại thì đều ở trong tư thế sẵn sàng để chờ lệnh lên đường.
Đến đầu tháng 9-1941, lực lượng tự vệ của các địa phương được lệnh tập kết về rừng cây ắng (Đa Ngọc Yên Định), biên chế lại đội ngũ để chuẩn bị tăng cường cho chiến khu Ngọc Trạo. 25 cán bộ và chiến sĩ tự vệ của Xuân Minh cũng nhanh chóng có mặt tại Đa Ngọc1. Trên đường đến Đa Ngọc, tự vệ của các địa phương ở Thọ Xuân, Thiệu Hoá đã được lực lượng cách mạng Xuân Minh và ở làng Trung Lập bố trí giúp đỡ đưa đường một cách an toàn và chu đáo.
Trong khi gần 100 tự vệ ở Đa Ngọc còn đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết trước khi lên đường tăng cường cho chiến khu Ngọc Trạo thì bị địch phát hiện và đánh úp. Thế là ngay trong đêm 7-10-1941, cuộc chiến đấu giữa lực lượng tự vệ với binh lính địch đã diễn ra một cách quyết liệt tại Đa Ngọc. Mặc dù không cân sức về lực lượng và vũ khí, nhưng các chiến sĩ tự vệ đã anh dũng chiến đấu để chống trả lại sự tấn công bất ngờ của địch. Trong giờ phút mặt đối mặt với quân thù, đồng chí Nguyễn Đức Tẻo (Hạnh Phúc, Thọ Xuân) vẫn cương quyết chỉ huy đồng đội chiến đấu, và đã hy sinh anh dũng tại trận địa. Đồng chí Trịnh Văn Nhẫn (Ngọc Trung), bị thương vẫn tiếp tục chiến đấu. Do sự đánh trả quyết liệt của lực lượng tự vệ, cho nên sáng ngày 8-10-1941, bọn địch phải rút lui. Và ngay sau đó, hầu hết lực lượng tự vệ Đa Ngọc đã nhanh chóng lên đường đến chiến khu Ngọc Trạo, còn một số đồng chí bị thương, ốm yếu đã được đưa về các cơ sở cách mạng một cách an toàn.
Sau sự kiện Đa Ngọc thì địch lại phát hiện ra chiến khu Ngọc Trạo. Và rạng sáng ngày 19-10-1941, địch tập trung toàn bộ lực lượng tinh nhuệ nhất đến bao vây và tấn công chiến khu hòng tiêu diệt toàn bộ đội du kích Ngọc Trạo lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá. Sau mấy giờ chiến đấu quyết liệt, đội du kích Ngọc Trạo đã buộc địch phải rút lui khỏi chiến khu. Lúc này xét về mặt tương quan lực lượng, ban lãnh đạo chiến khu đã quyết định rút toàn bộ về làng Cẩm Bào (Vĩnh Lộc) rồi sau đó phân tán về các cơ sở để tiếp tục hoạt động xây dựng và củng cố phong trào cách mạng ở trong tỉnh.
Mặc dù đội du kích Ngọc Trạo ra đời và chỉ hoạt động được một thời gian ngắn nhưng đã gây được tiếng vang rất lớn trong toàn tỉnh. Chính đây là sự biểu hiện quyết tâm của Đảng bộ Thanh Hoá trong việc thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ VI và hưởng ứng tích cực hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, đồng thời đó là cuộc tập dượt lớn đầu tiên về sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc ở tỉnh nhà.
Trong số gần 100 đội viên du kích Ngọc Trạo lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá thì riêng Xuân Minh đã có mặt là 12 đồng chí1. Đó là sự đóng góp đáng kể của một địa phương cách mạng có truyền thống và rất kiên cường.
Từ cuối tháng 10-1941 trở đi, bọn địch lại tiếp tục tập trung lực lượng để khủng bố phong trào cách mạng Thanh Hoá. Có thể nói từ năm 1930 đến 1945 thì đây là cuộc khủng bố lớn và tàn khốc nhất của kẻ thù tại tỉnh ta.
Ở Xuân Minh, không khí khủng bố lại càng ráo riết và ác liệt hơn. Suốt ngày đêm, binh lính và bọn tay sai phản động lại rình rập để lùng bắt cán bộ cách mạng. Thời gian này, phần lớn cán bộ, đảng viên và tự vệ của Xuân Minh đều sa vào lưới địch và bị giam cầm ở các nhà tù đế quốc. Mặc dù bị tra tấn dã man, nhưng các đồng chí của Xuân Minh vẫn giữ vững phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng kiên cường và bất khuất, tuyệt đối không một ai tỏ ra nhụt chí và đầu hàng giặc. Trong nhà tù, các đồng chí vẫn hướng một lòng tin vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng và tích cực tham gia các cuộc đấu tranh phản đối sự hà khắc của chế độ lao tù đế quốc, đồng thời hăng hái tham gia học tập văn hoá và lý luận cách mạng. Tình thương yêu đoàn kết lẫn nhau trong lao tù càng làm cho các đồng chí giữ vững được ý chí chiến đấu.
Như vậy, cuộc khủng bố của địch ở Xuân Minh không phải chỉ xảy ra từ sau khi chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ mà đã thực sự diễn ra từ tháng 7-1941 và kéo dài cho đến tận tháng 11-1941. Trong thời gian này, lực lượng cách mạng và quần chúng nhân dân ở Xuân Minh đã phải trải qua một cuộc chiến đấu cực kỳ gay gắt. Biết bao sự đổ nát, hy sinh đã từng diễn ra trên đất này. Tuy sự khủng bố trắng của địch có gây nhiều tổn thất cho phong trào cách mạng ở Xuân Minh nói riêng và ở trong tỉnh nói chung, nhưng sự khủng bố đó vẫn không thể nào dập tắt được ngọn lửa cách mạng đang cháy rực trong lòng quần chúng. Mặc dù phong trào tạm lắng xuống và gặp rất nhiều khó khăn, nhưng lòng tin vào Đảng, vào cách mạng của quần chúng vẫn bền vững. Mâu thuẫn giữa đế quốc và tay sai với nhân dân càng sâu sắc thêm.
Chính giữa lúc kẻ địch còn đang lùng sục, vây ráp, bắt bớ, cướp phá và đánh đập tàn bạo thì quần chúng cách mạng ở đây vẫn tìm mọi cách để giúp đỡ, nuôi nấng, chở che và đưa đón cán bộ với tất cả sự trung thành và hy sinh cao cả nhất. ở thời điểm này, quần chúng Xuân Minh mà trước hết là lực lượng phụ nữ đã tỏ rõ bản lĩnh và năng lực của mình trong đấu tranh chống khủng bố và trong hoạt động nuôi dấu, bảo vệ các cán bộ cách mạng.
Lúc này, được sự che chở của quần chúng, những chiến sĩ cách mạng còn lại của Xuân Minh đã bám sát cơ sở và tìm cách liên hệ với nhau để hoạt động củng cố tổ chức, củng cố phong trào, đồng thời bí mật liên lạc với các cơ sở cách mạng khác để cùng thống nhất hành động.
Tháng 11-1941, sau khi trốn thoát sự vây bắt của kẻ thù, đồng chí Đỗ Đan Quế, một cán bộ chủ chốt đã thoát ly của Xuân Minh đã liên lạc được với một số cán bộ, Đảng viên còn lại của Thọ Xuân và Thiệu Hoá như các đồng chí Viêm Quý Ngãi, Hồ Sỹ Nhân, Hoàng Văn Ngữ, Hoàng Văn Nghị, Trần Kim Tế, v.v... và trong tháng này, tại làng Mao Xá (nay là thôn Toán Tỵ, xã Thiệu Toán, huyện Thiệu Hoá), các đồng chí đã tổ chức một cuộc hội nghị để bàn biện pháp chống khủng bố và củng cố phong trào, đồng thời phân công cán bộ đi các nơi để chắp nối tổ chức1. Sau cuộc hội nghị này, đồng chí Đỗ Đan Quế đã bí mật trở lại vùng Xuân Minh và tổng Thử Cốc để hoạt động.
Ngày 29-12-1941, với chủ trương của hội nghị (11-1941), nhóm cán bộ, đảng viên còn lại của Thọ Xuân Thiệu Hóa đã tổ chức treo cờ đỏ sao vàng và rải truyền đơn kêu gọi chống khủng bố (ở Vân Đồn, Nông Cống). Đó là một đòn cảnh cáo mới đối với địch, đồng thời là biểu hiện của sự quyết tâm cách mạng rất cao của cán bộ và quần chúng trong điều kiện tỉnh ta vừa trải qua một cuộc khủng bố lớn chưa từng thấy. Nhưng dù sao, việc làm ấy cũng đã dẫn đến sự bộc lộ lực lượng, để cho địch dễ dàng phát hiện và tiếp tục khủng bố. Thế là, đến tháng 2-1942, toàn bộ nhóm cán bộ, đảng viên vừa được tập hợp trên đều bị sa vào lưới của địch.
Tiếp sau đó, đến tháng 3-1942, một số cán bộ, đảng viên còn lại khác ở hai huyện Thọ Xuân Thiệu Hoá (như các đồng chí Lê Xuân Việt (tức Cớt), đồng chí Toại, Đỗ Huy Mễ và hai nữ đồng chí Huê, An (tức Kim Liên)) sau khi đã liên hệ được với một số cơ sở cách mạng lại tiếp tục nhóm họp tại làng Vân Lộ (nay là xã Xuân Khánh, Thọ Xuân) để bàn việc củng cố tổ chức và củng cố phong trào1. Các đồng chí này đã chủ trương in lại tờ báo Tự do cơ quan ngôn luận của Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hoá trước đó để làm vũ khí tuyên truyền đến tận cơ sở. Từ đó, phong trào tổ chức ở một số cơ sở cách mạng của hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá được hồi phục trở lại trong một chừng mực nhất định. Nhưng nói chung, mọi hoạt động lúc này đều rút lui hoàn toàn vào bí mật và còn gặp rất nhiều khó khăn, cho nên nhóm cán bộ đảng viên còn lại trên đây vẫn chưa đủ điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động sang các địa bàn khác ở trong tỉnh.
Ở Xuân Minh, mà trước hết là ở làng Thuần Hậu, Phong Cốc, Xá Lê, do số cán bộ và quần chúng cách mạng nòng cốt, trung kiên vẫn còn lại nhiều, cho nên việc củng cố tổ chức và phong trào có phần thuận lợi hơn. Lúc này, các chiến sĩ cách mạng còn lại đã mở một cuộc vận động quần chúng quyên góp tiền bạc, quà bánh, thuốc men, quần áo cho các đồng chí đang bị giam giữ ở nhà tù Thanh Hoá, và kêu gọi tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn hoạn nạn, đặc biệt là đối với những gia đình có người bị tù đày và bị địch triệt hạ, cướp phá. ở làng Thuần Hậu, các đồng chí cán bộ còn tổ chức vận động quần chúng làm đơn kiện Phó lý Y về tội nhũng nhiễu và ăn hối lộ của nhân dân. Kết quả đã làm cho Phó lý Y bị cách chức. Việc này cũng gây ảnh hưởng tốt trong quần chúng. Nói chung, tại các làng, quần chúng vẫn rất trung thành với Đảng và cách mạng, nhưng phong trào vẫn chưa sâu, chưa mạnh vì còn thiếu một đường lối lãnh đạo thống nhất và sát đúng với tình hình thực tế sau khủng bố. Do đó, vấn đề liên lạc với Đảng cấp trên vẫn là một đòi hỏi vô cùng bức thiết.
Vào lúc này, một số chiến sĩ cách mạng như các đồng chí Lê Tất Đắc, Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Tiến Trình, Hoàng Xung Phong, Nguyễn Văn Phác trốn thoát khỏi nhà tù Ban Mê Thuột và trại tập trung Ly Hy đã trở về Thanh Hoá để hoạt động. Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu tình hình tổ chức và phong trào cơ sở thì đến tháng 5-1942, các đồng chí đã thành lập được một ban liên lạc tại Nga Sơn nhằm chắp nối các tổ chức cơ sở Đảng ở các địa phương để tiến tới củng cố Đảng bộ tỉnh nhà. Đồng chí Trịnh Ngọc Điệt và Hoàng Tiến Trình được phân công liên lạc với các cơ sở cách mạng cũ ở vùng Thiệu Hóa, Thọ Xuân và Yên Định. Từ đó trở đi, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt và một số đồng chí khác đã lần lượt về Xuân Minh hoạt động. Tại Xuân Minh, được quần chúng che chở và bảo vệ, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đã nhanh chóng liên hệ được với những cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng trung kiên còn lại của địa phương và thông qua đó để mở rộng sự liên lạc ra các vùng khác. Gia đình đồng chí Đỗ Huy Kính (tức Lý Cung), Đỗ Huy Khuê và làng Thuần Hậu nói chung đã trở thành một địa điểm liên lạc chủ yếu để chắp nối tổ chức và củng cố phong trào của tổng Thử Cốc lúc đó.
Đến tháng 7-1942, tại làng Thượng (Nga Sơn), ban liên lạc đã triệu tập một cuộc hội nghị đại biểu các cơ sở cách mạng toàn tỉnh để thành lập một tổ chức quần chúng cách mạng lấy tên là Thanh Hoá ái quốc hội với mục đích tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào mặt trận thống nhất chống Pháp Nhật. Hội nghị bầu ra Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ lâm thời gồm 3 đồng chí do đồng chí Lê Tất Đắc làm Bí thư, và quyết định xuất bản tờ báo Đuổi giặc nước làm cơ quan ngôn luận của Đảng bộ. Đây là một sự kiện quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố, thúc đẩy sự phát triển tổ chức và phong trào cách mạng tỉnh Thanh Hoá.
Sau hội nghị Nga Sơn (7-1942), đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Tiến Trình vẫn tiếp tục được phân công theo dõi chỉ đạo phong trào các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân và Yên Định.
Tháng 10-1942, tại làng Thuần Hậu (Xuân Minh) thông qua đồng chí Đỗ Huy Mễ một cán bộ nòng cốt còn lại ở vùng này, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đã liên lạc được với nhóm cán bộ, đảng viên của hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hoá1 để thống nhất đưa vào guồng máy lãnh đạo chung của Tỉnh Đảng bộ lâm thời. Điều đó càng có thêm điều kiện thuận lợi để củng cố và đẩy mạnh phong trào những huyện này tiến lên nhanh chóng hơn. Riêng Xuân Minh mà trước hết là ở làng Thuần Hậu, do được sự bắt mối và chỉ đạo trực tiếp của cán bộ cấp trên, cho nên những chiến sĩ cách mạng còn lại đã bắt đầu hoạt động một cách tích cực, khẩn trương và sát đúng với tinh thần đường lối đề ra của Đảng bộ. Một số đồng chí trung kiên và hăng hái đã được đào tạo thành những cán bộ liên lạc quan trọng để thực thi nhiệm vụ đưa đón cán bộ và chuyển tài liệu, thư từ bí mật đến các cơ sở cách mạng ở trong tỉnh.
Cuối tháng 10-1942, đồng chí Đỗ Huy Kính và Đỗ Hữu Vi được phân công xuống Lò Chum (Thị xã) đón đồng chí Tố Hữu một cán bộ nòng cốt của Đảng bộ Tỉnh về làng Thuần Hậu (Xuân Minh) để hoạt động2.
Lúc này, mặc dù ở đồn Phong Cốc vẫn còn cắm chốt một đội lính và mạng lưới mật thám tay sai còn rất nhiều, nhưng việc củng cố tổ chức, củng cố phong trào tại địa phương vẫn được xúc tiến một cách khẩn trương.
Tháng 11-1942, tại lò gạch ở giữa cánh đồng làng Thuần Hậu, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt thay mặt cấp trên triệu tập một cuộc họp bao gồm các đồng chí cán bộ, đảng viên chủ chốt còn lại của địa phương để phổ biến chủ trương thành lập hội ái quốc ở các làng trong tổng nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp quần chúng vào mặt trận thống nhất chống Pháp Nhật. Tại hội nghị này, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt còn nhắc nhở các đồng chí cán bộ của địa phương phải luôn luôn cảnh giác với những âm mưu chia rẽ, lôi kéo của bọn Đại Việt tay sai cho phát xít Nhật.
Sau cuộc họp được ít ngày thì làng Thuần hậu là làng đầu tiên của tổng Thử Cốc đã thành lập được hội ái quốc (với tổng số 16 hội viên) trên cơ sở chọn lựa các hội viên phản đế cũ còn lại để kết nạp.
Nói chung, đến cuối năm 1942, phong trào cách mạng ở khu vực Xuân Minh đã có nhiều biến chuyển, đặc biệt về mặt tổ chức đang trên đà được củng cố vững chắc hơn. Tuy vậy, phong trào lúc này vẫn chưa mạnh mẽ và sôi nổi. Các cuộc đấu tranh của quần chúng còn diễn ra một cách rời rạc, lẻ tẻ trong phạm vi của làng như kiện tụng, kêu la, trốn phu, trốn lính, v.v...
Đầu năm 1943, Đảng bộ Thanh Hoá chính thức bắt được liên lạc với Trung ương Đảng và được tiếp thu tinh thần nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VIII. Từ đây, phong trào Việt Minh đuổi giặc cứu nước ở tỉnh ta lại được dấy lên một cách nhanh chóng và đều khắp.
Tháng 3-1943, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt đã trở lại Xuân Minh và triệu tập một cuộc hội nghị cán bộ tổng Thử Cốc tại chùa Yên Thọ1 để phổ biến tinh thần nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VIII và phổ biến chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh, đồng thời kêu gọi đẩy mạnh phong trào đuổi giặc cứu nước tại địa phương. Cuộc họp vừa kết thúc thì địch đánh hơi phát hiện và tung lực lượng đến vây bắt được một số đồng chí (như Đỗ Huy Khuê, Đỗ Huy Kính, Đỗ Huy Mễ, Đỗ Thị Dốt, Đỗ Văn Đam, Trịnh Thị Đức). Mặc dù một số đồng chí bị địch bắt, nhưng những đồng chí còn lại vẫn xúc tiến việc thành lập các hội cứu quốc của mặt trận Việt Minh. Và làng Thuần Hậu là làng đầu tiên trong tổng đã thành lập được tổ chức mặt trận Việt Minh.
Tiếp sau đó, vào cuối năm 1943, các chiến sĩ cách mạng còn lại của làng Phong Cốc lại bắt được liên lạc với đồng chí Ngô Ngọc Vũ (Thiệu Hoá) và nhận được nhiều tài liệu của cấp trên (như điều lệ, cương lĩnh của mặt trận Việt Minh...). Do đó đến đầu năm 1944, làng Phong Cốc là làng thứ hai của Xuân Minh đã thành lập được tổ chức mặt trận Việt Minh. Tháng 3-1944, số hội viên tham gia trong mặt trận Việt Minh của làng Phong Cốc đã lên đến 30 người. ở các làng Xá Lê, Ngọc Trung, Yên Thọ, Phú Tình và Thiên Lộc mặc dù chưa thành lập được tổ chức này, nhưng những chiến sĩ cách mạng còn lại vẫn bí mật vận động quần chúng đấu tranh chống mê tín dị đoan, chống cường hào nhũng nhiễu, chống bán bông, bán lạc cho giặc Nhật, và kiện lý trưởng, đánh cường hào, v.v...
Tháng 4-1944, hai đồng chí Nguyễn Văn Doăng (Phong Cốc) và Đỗ Huy Phiên (Thuần Hậu) được cử đi dự lớp huấn luyện quân sự, chính trị đầu tiên do tỉnh Đảng bộ tổ chức tại làng Cựu Thôn (Thiệu Toán, Thiệu Hoá). Sau đó, cả hai làng Phong Cốc và Thuần Hậu đã xây dựng được lực lượng tự vệ và thường xuyên luyện tập về ban đêm.
Thời gian này, một số chiến sĩ cách mạng ở các làng của Xuân Minh mãn hạn tù đã trở về địa phương để tiếp tục hoạt động, làm cho lực lượng cốt cán của phong trào lại được tăng cường hơn.
Một đêm tháng 5-1944, Ban cán sự Việt Minh của hai làng Phong Cốc và Thuần Hậu đã tổ chức một cuộc mít tinh tại cánh đồng Cù Quỷnh với 50 người tham dự để nghe đồng chí Ngô Ngọc Vũ giải thích về đường lối, chủ trương của mặt trận Việt Minh. Tại đây, đồng chí Ngô Ngọc Vũ đã kêu gọi quần chúng hưởng ứng tích cực vào các phong trào đuổi giặc cứu nước đang được đẩy lên mạnh mẽ ở tỉnh nhà. Sau cuộc mít tinh, một số đồng chí được phân công rải truyền đơn ở con đường liên huyện: Thiệu Hoá - Cầu Vàng Yên Định và ở các nhà của bọn lý hương để kêu gọi chống bắt phu, bắt lính, chống thu thóc, thu bông, chống bán bông, bán lạc cho giặc Nhật, v.v... Kết quả đã kích thích và cổ vũ mạnh mẽ được tinh thần của quần chúng.
Ngày 24-6-1944, hội nghị đại biểu đảng bộ tỉnh họp tại làng Vĩ Liệt (Hà Trung) đã đề chủ trương gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Đến ngày 15-9-1944, Tỉnh Bộ Việt Minh lại ra tiếp chỉ thị kíp sửa soạn khởi nghĩa nhằm thúc đẩy việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang để chuẩn bị đón thời cơ giành chính quyền về tay cách mạng.
Chủ trương của hội nghị Đảng bộ tỉnh và chỉ thị của Tỉnh bộ Việt Minh nhanh chóng được truyền đến Xuân Minh và tổng Thử Cốc, làm cho phong trào ở đây biến chuyển rất mạnh mẽ và sôi nổi. Cuối năm 1944, phong trào chống thu thóc, thu bông, chống bắt phu, bắt lính, chống đánh đập khủng bố, v.v... không phải chỉ diễn ra ở hai làng Phong Cốc và Thuần Hậu mà còn lan rộng ra các làng Ngọc Trung, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ và Thiên Lộc.
Cũng thời gian trên, bọn Đại Việt tay sai cho Nhật đã về các làng ở Xuân Minh để hoạt động ráo riết nhằm chia rẽ, mua chuộc và lôi kéo quần chúng đi chệch quĩ đạo cách mạng1. Nhưng cuối cùng, tất cả mọi cố gắng và âm mưu của chúng đều thất bại. Cán bộ, đảng viên, ở đây đã đi sâu đi sát quần chúng để giải thích và vạch mặt âm mưu xảo quyệt của bọn chúng. Mặc dù bọn Đại Việt và lý hương nhiều lần đánh trống, gõ mõ mời làng ra để nói chuyện nhưng vẫn không được một ai hưởng ứng. Sau đó, chúng tìm cách len lỏi vào từng gia đình để mua chuộc, dụ dỗ nhưng vẫn không thành. Việc bọn Đại Việt tay sai cho Nhật đến Xuân Minh mà không có chỗ dừng chân để hoạt động là một biểu hiện chứng tỏ trình độ giác ngộ cách mạng và lòng tin vào Đảng của quần chúng ở đây rất cao. Chính đó là một thành trì cách mạng kiên cố để chiến thắng mọi âm mưu nham hiểm của kẻ thù.
Đầu năm 1945, đại chiến thế giới lần thứ hai đã biến chuyển sang một cục diện mới, đẩy bọn phát xít Đức ý Nhật đến nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Đó là một điều kiện thuận lợi thúc đẩy phong trào cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ và quyết liệt hơn.
Tại Thanh Hoá, phong trào chuẩn bị khởi nghĩa đã được phát động sâu rộng khắp nơi, mặt trận Việt Minh ngày càng được mở rộng để tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên chống Pháp Nhật.
Ở Xuân Minh, đến đầu năm 1945 thì ở tất cả các làng đều đã tổ chức được mặt trận Việt Minh. Các đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc lần lượt ra đời làm cho phong trào cách mạng ở địa phương càng thêm sôi động.
Giữa lúc phong trào gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa ở Xuân Minh nói riêng và trong tỉnh nói chung đang trên đà phát triển thì một nạn đói khủng khiếp chưa từng thấy đã diễn ra làm cho hàng vạn người trong tỉnh bị chết đói. Đó là hậu quả nghiêm trọng của những chính sách vơ vét, cướp đoạt của bọn Phát xít Nhật. Đứng trước tình hình đó, Tỉnh Đảng bộ đã kịp thời ra chỉ thị đòi ăn (5-3-1945) để hướng dẫn những biện pháp và chủ trương cụ thể để giải quyết nạn đói cho nhân dân.
Ở Xuân Minh, nạn đói cũng gây ra biết bao khó khăn cho mọi gia đình. Nhưng với tinh thần tương thân tương ái và đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, cho nên tất cả cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân Xuân Minh đã vượt qua được nạn đói này. Trong cả 7 làng, không có một người nào bị chết đói. Đó là một điển hình đặc biệt trong hoàn cảnh của tỉnh ta lúc đó. Hơn nữa Xuân Minh là một vùng đất nghèo, mất mùa liên tục và đã từng trải qua những cuộc khủng bố triệt hạ lớn của địch, cho nên việc đoàn kết giúp đỡ nhau để vượt qua nạn đói này cũng là một thắng lợi đáng kể của lực lượng cách mạng Xuân Minh. Nhận được chỉ thị đòi ăn của Tỉnh Đảng bộ, các làng của Xuân Minh còn tổ chức vận động vay lúa những nhà giàu để giải quyết kịp thời cho nhiều gia đình bị mất bữa. Tác dụng của phong trào giải quyết nạn đói này đã làm cho quần chúng càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và hăng hái quyết tâm tham gia mọi hành động cách mạng.
Đêm ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Không đầy một ngày sau, thực dân Pháp chính thức đầu hàng Nhật. Đây là một sự kiện thôi thúc Đảng bộ và quần chúng nhân dân tỉnh ta nhanh chóng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay cách mạng.
Tháng 4-1945, bản chỉ thị lịch sử Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Ban thường vụ Trung ương Đảng (12-3-1945) đã truyền đến Thanh Hoá. Quán triệt và tiếp thu bản chỉ thị đó, Đảng bộ tỉnh đã kịp thời mở cuộc hội nghị ở làng Vĩ Liệt (Hà Trung) để quyết định những chủ trương và biện pháp cụ thể đối với phong trào đuổi Nhật cứu nước. Hội nghị chủ trương mở rộng cơ sở cách mạng, phát triển các đơn vị tự vệ chiến đấu, xây dựng các đội tuyên truyền xung phong lập căn cứ chống Nhật, vũ trang khởi nghĩa ở những nơi có điều kiện để thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân, v.v...
Lúc này khẩu hiệu cách mạng đánh đuổi phát xít Nhật Pháp trước đây được thay bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật.
Tiếp sau hội nghị Vĩ Liệt, Tỉnh bộ Việt Minh lại ra tiếp chỉ thị sắm sửa vũ khí đuổi thù chung để thúc đẩy nhanh chóng việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Dưới ánh sáng của các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, phong trào chống Nhật cứu nước ở tỉnh ta phát triển mạnh mẽ thành một cao trào vô cùng rộng lớn và đều khắp.
Ở Xuân Minh, từ tháng 4-1945 trở đi, phong trào cũng phát triển một cách rầm rộ. Thời gian này, hầu hết các chiến sĩ cách mạng Xuân Minh từ các nhà tù đế quốc đã lần lượt trở về địa phương để tiếp tục tham gia hoạt động. Do đó mà lực lượng lãnh đạo cốt cán của các làng được tăng cường một cách kịp thời, làm cho tổ chức và phong trào càng có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng và vững mạnh hơn.
Lúc này, tại địa phương, các cuộc họp, mít tinh, rải truyền đơn, dán áp phích kêu gọi quần chúng hưởng ứng mặt trận Việt Minh đã diễn ra liên tiếp và rất sôi nổi. Lực lượng tự vệ cứu quốc ở các làng đã chuyển thành tự vệ chiến đấu và con số ngày càng được bổ sung nhiều hơn. Phong trào tập võ dân tộc và huấn luyện quân sự diễn ra công khai và rầm rộ. Việc canh gác, tuần tra bảo vệ cán bộ và cơ sở cách mạng được bố trí cẩn thận chu đáo. Trước khí thế lớn mạnh của lực lượng và phong trào cách mạng, tập đoàn tay sai ở địa phương hoàn toàn hoang mang, giao động và không hề chống đối lại. Những tên ngoan cố đầu sỏ bị cô lập và cảnh cáo thường xuyên. ở làng Phong Cốc, Thuần Hậu, bộ máy chính quyền tay sai chỉ còn là hình thức, và thực chất, lực lượng cách mạng đã gần như làm chủ được tình hình tại địa phương.
Tháng 6-1945, tổng uỷ Việt Minh Thử Cốc đã tổ chức một cuộc diễn tập thí điểm lớn của lực lượng tự vệ chiến đấu tại làng Phong Cốc một cách công khai giữa ban ngày để rút kinh nghiệm cho các làng, đã làm cho không khí chiến đấu càng thêm sôi động.
Đến tháng 7-1945, lực lượng cách mạng của các làng ở Xuân Minh đã liên tiếp tham dự nhiều cuộc mít tinh tuyên truyền xung phong do huyện, tổng tổ chức ở các địa điểm chợ Đu, chợ Cuội, chợ Thạc, v.v... Trong các cuộc mít tinh này, lực lượng tự vệ đã hoàn thành xuất sắc việc bảo vệ cán bộ và quần chúng.
Việc rèn sắm vũ khí, quyên góp tiền bạc, thóc gạo để ủng hộ quĩ khởi nghĩa ở các làng đã trở thành một phong trào quần chúng rất sôi nổi và thu hút được hầu hết tất cả mọi người tham gia. ở Thuần Hậu, có người ủng hộ đến 20 đồng bạc Đông Dương (như bà Lý Thị Sói) và 10 đồng bạc Đông Dương (như bà Trần Thị Môn).
Có thể nói, cho đến những ngày cuối tháng 7 và đầu tháng 8-1948, phong trào chuẩn bị khởi nghĩa ở khu vực Xuân Minh đã đến độ chín mùi. Lực lượng cách mạng ở các làng đã áp đảo hoàn toàn tập đoàn lý hương tay sai và cương quyết không cho chúng thu thuế, thu bông, thu lạc... cho giặc Nhật. Sự đi lại của lực lượng tự vệ và cán bộ cách mạng từ làng này đến làng khác đã trở thành công khai như đi lại trong một vùng tự do. Binh lính địch dưới phủ huyện thời gian này đã không dám bén mảng đến địa phận của các làng ở Xuân Minh nói riêng và ở tổng Thử Cốc nói chung. ở từng làng, Ban cán sự Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc đều mở hội nghị bàn định kế hoạch cụ thể cho việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Lúc này, trống mõ và các dụng cụ báo động khác hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của lực lượng cách mạng. Truyền đơn, áp phích, băng cờ, biểu ngữ đã được chuẩn bị chu đáo. Tất cả mọi lực lượng đều đã trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh để hành động.
Trước sự biến chuyển mau lẹ của tình hình, ngày 14-8-1945 Tỉnh uỷ mở hội nghị tại làng Mao Xá (Thiệu Toán, Thiệu Hoá) để bàn kế hoạch xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Giữa lúc cuộc họp đang tiến hành thì ngày 15-8-1945, báo Đông Pháp đăng tin phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và đồng minh không điều kiện. Vận dụng tinh thần chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Trung ương Đảng, hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền.
Tinh thần của hội nghị Mao Xá nhanh chóng được truyền đến tổng Thử Cốc và các làng của Xuân Minh.
Ngày 16-8-1945, ở tất cả các làng ở đây đều đã thành lập được ban khởi nghĩa và tuyên truyền sâu rộng việc giành chính quyền trong nhân dân.
Ngày 18-8-1945, một cuộc tuần hành thị uy lớn của tổng Thử Cốc đã được tổ chức. Hàng ngàn tự vệ và quần chúng cách mạng của toàn tổng mang theo đầy đủ các loại băng cờ biểu ngữ và vũ khí (như dao, kiếm, mác, gậy tày và một số súng) kéo về tập trung tại chợ Mới (Trung Lập). Sau khi chấn chỉnh lại đội ngũ, đoàn tuần hành đã lần lượt đi qua các làng trong tổng và vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu cách mạng.
- Việt Nam hoàn toàn độc lập!
- Chính quyền về tay nhân dân!
- Ủng hộ Việt Minh!
- Đả đảo bọn Việt gian phản động! v.v...
Đến làng nào, đoàn tuần hành cũng ra lệnh cho bọn lý hương không được ức hiếp quần chúng và phải hoàn lại số thuế đã thu cho mọi người. Có thể nói chưa bao giờ không khí cách mạng ở làng, ở tổng lại náo nhiệt và sôi động như lúc này.
Mặc dù đây chưa phải là cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền chính thức, nhưng cuộc tuần hành thị uy này đã có tác dụng làm cho bộ máy chính quyền tay sai tại địa phương hoàn toàn bị tê liệt. Quần chúng nhân dân vô cùng hào hứng, phấn khởi và thấy rõ giờ phút tất thắng của cách mạng đã đến rồi.
Sáng 19-8-1945, nhận được lệnh khởi nghĩa, tất cả các làng của Xuân Minh đều nhất loạt nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của ban khởi nghĩa, lực lượng tự vệ đã tiến hành nhanh chóng việc tịch thu các loại bằng triện, giấy tờ, sổ sách của bọn hào lý để thực hiện nhiệm vụ giải tán và xoá bỏ chính quyền cũ của thực dân phong kiến. Ngay sau đó, toàn bộ lực lượng tự vệ và quần chúng nhân dân đã nô nức kéo về sân đình của làng mình để tham dự cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi của cách mạng. Cờ đỏ sao vàng và các loại băng, khẩu hiệu được dương cao và dăng đầy từ sân đình đến tận đường làng, ngõ xóm, làm sáng rực cả đất trời nơi đây. Tại cuộc mít tinh ở từng làng, chính quyền dân chủ nhân dân là uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời vừa được thành lập đã ra mắt chính thức trong tiếng hoan hô vang dậy của quần chúng1.
Đến trưa ngày 19-8, sau khi cuộc khởi nghĩa ở các làng Xuân Minh nói riêng và trong tổng nói chung đã kết thúc một cách thắng lợi và không đổ máu, Uỷ ban khởi nghĩa tổng Thử Cốc đã cấp tốc họp tại nhà đồng chí Đỗ Văn Duyến (làng Phong Cốc) để bàn biện pháp phát huy thành quả cách mạng vừa giành được để đưa phong trào quần chúng tiếp tục tiến lên toàn diện và mạnh mẽ hơn. Sau đó, hội nghị đã bầu ra một UBND cách mạng lâm thời tổng, do đồng chí Đỗ Huy Trinh làm Chủ tịch. Hội nghị còn bầu các đồng chí Đỗ Văn Duyến làm Chủ nhiệm Việt Minh tổng, Nguyễn Xuân Oanh làm Bí thư thanh niên tổng, Đỗ Thị Hạm làm Bí thư phụ nữ tổng.
Chiều ngày 19-8, hai đội tự vệ cảm tử của làng Phong Cốc và làng Thuần Hậu được lệnh lên đường chi viện cho cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Thị xã. Và tại đây, trong ngày ra mắt của UBND cách mạng lâm thời tỉnh (23-9-1945) một số chiến sĩ tự vệ Xuân Minh đã tự nguyện tham gia vào lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh để làm nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng.
Sáng ngày 20-8-1945, lực lượng tự vệ Xuân Minh và của các làng trong tổng đã tập trung về Long Linh để tham dự cuộc tuần hành vũ trang biểu dương lực lượng do UBND lâm thời tổng tổ chức. Đoàn tuần hành vũ trang đã đi qua tất cả các làng để trừng trị và trấn áp bọn phản động tay sai có nhiều nợ máu với nhân dân. Đi đến làng nào, đoàn cũng được nhân dân hưởng ứng và hoan hô nhiệt liệt. Bọn phản động đầu sỏ và nguy hiểm như Hào Văn (Phong Cốc), Hào Liên (Thuần Hậu), Tuần Chấp (Xá Lê), Lý Nho (Trung Lập), Cựu Điểm (Phong Lai), Lý Toà (Long Linh), v.v... đã bị cảnh cáo nghiêm khắc và đều cúi đầu nhận tội trước nhân dân.
Thế là bắt đầu từ đây, với sự chấm dứt của chế độ thực dân phong kiến, nhân dân Xuân Minh đã thực sự bước vào cuộc đời mới cuộc đời được làm chủ vận mệnh của mình để thực hiện Độc lập Tự do và Hạnh phúc.
Ngày 2-9-1945, cùng với nhan dân cả Tỉnh và cả nước, nhân dân Xuân Minh đã chăm chú lắng nghe Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sự kiện đó đã đánh dấu một bước ngoặt lớn lao trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. Nhưng đây cũng chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh, nhân dân Xuân Minh đã đoàn kết chặt chẽ cùng nhân dân cả nước tiếp tục công cuộc xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới đầy khó khăn gian khổ nhưng vô cùng vĩ đại.
Như vậy, sau 15 năm đấu tranh dưới cờ Đảng quang vinh (1930-1945) vượt qua bao gian khổ hy sinh, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh cùng cả nước đã đập tan gông xiềng nô lệ để chính thức bước sang một kỷ nguyên mới kỷ nguyên Độc lập Tự do và chủ nghĩa xã hội. Mười lăm năm ấy, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã tự tay viết lên những trang sử vô cùng vẻ vang, oanh liệt và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân tộc.
Từ thực tiễn của 15 năm, Xuân Minh đã thực sự trở thành một mảnh đất cách mạng kiên cường, một chỗ đứng chân tin cậy của Đảng bộ Thanh Hoá trong những ngày hoạt động bí mật.
Là một nơi có cơ sở Đảng sớm, có các tổ chức quần chúng của Đảng vững mạnh, có phong trào đấu tranh rất tiêu biểu và liên tục, cho nên trong 15 năm hoạt động, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh đã đóng góp một phần tích cực cho quá trình thành lập củng cố, khôi phục và phát triển của Đảng bộ tỉnh nhà (đặc biệt giai đoạn từ 1930-1935), đồng thời góp phần vào việc liên lạc, qui tụ, thống nhất các cơ sở Đảng và lực lượng cách mạng toàn tỉnh trước khi Thanh Hoá bước sang thời kỳ cao trào phản đế cứu quốc (1940-1941), v.v... Trong khi tiến hành vận động và thúc đầy phong trào cách mạng tại địa phương, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng Xuân Minh còn biết phối hợp và chi viện với các địa phương khác nhằm đưa phong trào tiến lên ngày càng mạnh mẽ hơn. Tại đây, nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng bộ tỉnh và của các huyện vẫn thường xuyên qua lại, cắm chốt để hoạt động và nhiều cuộc họp lịch sử quan trọng của tỉnh đã được tổ chức đều được bảo vệ một cách an toàn và thắng lợi.
Chính kẻ thù vẫn gọi các làng của Xuân Minh và tổng Thử Cốc nói chung là lò lửa cách mạng, là sào huyệt cộng sản, là trung tâm của sự chống đối và lật đổ chính phủ, v.v... cho nên, chúng phải nhiều phen đau đầu nhức óc và đã tập trung lực lượng đến đây để đối phó liên tục. Cũng bởi vì thế mà đến năm 1941, nhằm khống chế và dập tắt phong trào cách mạng ở đây, chúng đã điều một bộ phận binh lính tinh nhuệ cùng những tên tay sai đầu sỏ cáo già nhất đến đóng đồn tại làng Phong Cốc để tiến hành một cuộc khủng bố trắng chưa từng thấy.
Trong 15 năm, mặc dù trải qua nhiều lần bị khủng bố, nhưng phong trào cách mạng ở đây vẫn không bao giờ bị tắt ngấm và gián đoạn. Cứ sau mỗi lần khủng bố, dù dữ đội đến đâu, phong trào của địa phương vẫn tự hồi phục và phát triển nhanh chóng. Sự tàn bạo của kẻ thù đối với một nơi như Xuân Minh thật điển hình, nhưng rút cuộc chỉ làm cho ngọn lửa cách mạng ở trong lòng quần chúng càng cháy rực thêm. Trong vòng kìm kẹp và vây bủa của quân thù, nhân dân Xuân Minh vẫn vượt qua mọi gian khổ hy sinh để đưa đón, chở che và tiếp tế cho cán bộ cách mạng. Dù máu chảy đầu rơi, dù tù đầy tra tấn, dù bị triệt hạ nhà cửa và bị cướp đoạt tài sản, nhưng tất cả đều không hề khiếp sợ và vẫn giữ một lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng. Đó là biểu hiện ngời sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Xuân Minh. Ngay cả trong những giờ phúc sóng gió và đen tối nhất thì ở mảnh đất này cũng không hề có một cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng nào chịu khuất phục và đầu hàng địch.
Như vậy, trong cả quá trình đấu tranh cách mạng (1930-1945), cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phải gánh chịu biết bao gian khổ, hy sinh để đổi lấy những chiến thắng huy hoàng cho sự nghiệp vì Độc lập Tự do của Tổ quốc. Trong 15 năm ấy, 105 chiến sĩ cách mạng Xuân Minh đã bị đế quốc tuyên án hơn 500 năm tù, và thực tế đã bị cầm tù là hơn 300 năm. Trong số 7 làng thì có 3 làng bị địch triệt hạ nặng nề nhất, đó là làng Phong Cốc, Xá Lê và Thuần Hậu. Biết bao nhà cửa, trâu bò và tài sản của nhân dân đã bị địch triệt phá và tước đoạt. Những cảnh gia đình tan tác và ly tán đã diễn ra thường xuyên trên đất này.
Trong các nhà tù đế quốc, mặc dù bị nhiều cực hình tra tấn và hành hạ, nhưng các chiến sĩ cách mạng Xuân Minh vẫn tuyệt đối trung thành với Đảng và giữ vững được phẩm chất cách mạng, đã biến nhà tù thành trường rèn luyện đấu tranh, học tập, bồi dưỡng kinh nghiệm công tác, chính trị và văn hoá. Cho nên khi ra tù, tất cả các đồng chí đều trở thành những cán bộ ưu tú và nòng cốt tham gia tích cực các phong trào.
Từ trong 15 năm, cơ sở cách mạng Xuân Minh đã đào tạo và rèn luyện được một đội ngũ cán bộ, Đảng viên trung thành, có năng lực và giàu ý chí chiến đấu. Nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ chủ chốt của tỉnh, huyện và tổng.
Từ trong 15 năm, cơ sở cách mạng Xuân Minh cũng để lại được nhiều bài học kinh nghiệm quí báu về công tác xây dựng Đảng và xây dựng các tổ chức quần chúng, về phương pháp đấu tranh, kinh nghiệm về sự kết hợp giữa đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, giữa hợp pháp và không hợp pháp, giữa hình thức thấp đến hình thức cao, hay kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang và sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, v.v... Nhưng chung qui lại thì thấy rằng toàn bộ phong trào cách mạng ở Xuân Minh từ 1930-1945 đã phản ánh được một cách sinh động về sự hình thành và phát triển của cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng. Thông qua đấu tranh cách mạng, cơ sở Đảng ở đây đã đào luyện được nhiều nhân tố tích cực để phát triển Đảng. Quán triệt đúng đắn đường lối của Đảng, cơ sở Đảng Xuân Minh đã tập hợp xung quanh mình một đội ngũ cách mạng hùng hậu và vững chắc để chuẩn bị cho những bước nhảy vọt quyết định. Các đồng chí Đảng viên và cán bộ cách mạng ở đây đã thường xuyên đi sâu, đi sát quần chúng để từng bước giác ngộ và đưa quần chúng tập dượt đấu tranh dưới những hình thức từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ phong trào của một làng đến phong trào của một tổng, v.v... Nhờ đó mà lực lượng chính trị và trận địa đấu tranh của quần chúng ở địa phương càng được mở rộng, củng cố không ngừng cùng với sự phát triển của cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng. Thực tiễn của quá trình vận động cách mạng ở Xuân Minh đã chứng minh hùng hồn về sự cần thiết và vị trí quan trọng đặc biệt của việc phát triển Đảng và xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng. Vì chú trọng vấn đề này, cho nên giai đoạn 1930-1935 và đặc biệt là từ 1936-1939, 1939-1945, phong trào cách mạng của Xuân Minh đã phát triển một cách liên tục, vững chắc và đều khắp. Nhưng thực tiễn ở đây cũng cho thấy, nếu lúc nào đó, vấn đề này bị xem nhẹ, hoặc không chú trọng đúng mức thì sẽ dẫn đến sự giảm sút và suy yếu của phong trào. Trong thời kỳ vận động mặt trận phản đế (ở những tháng giữa năm 1941), khi phần lớn cán bộ, Đảng viên của Xuân Minh rút sang lực lượng tự vệ và hoạt động thoát ly giữa lúc địch đang tiến hành khủng bố mạnh, đã làm cho các tổ chức và hoạt động của quần chúng bị thu hẹp, đồng thời cũng làm hạn chế rất nhiều đến sự chỉ đạo, củng cố và phát triển phong trào tại địa phương. Sau khi lực lượng tự vệ Đa Ngọc bị tấn công và chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, kẻ thù tập trung toàn bộ lực lượng để tiến hành một cuộc khủng bố vô cùng dữ dội vào phong trào cách mạng Thanh Hoá (trong đó có Xuân Minh và tổng Thử Cốc là một trong những nơi bị khủng bố nặng nề nhất). Lúc này hầu hết cán bộ, đảng viên của Xuân Minh đều sa vào lưới địch và bị giam cầm trong nhà tù đế quốc. Do thiếu hẳn lực lượng lãnh đạo nòng cốt, cho nên phong trào của địa phương gặp rất nhiều khó khăn. Từ thực tiễn này, những chiến sĩ cách mạng Xuân Minh còn rút ra được bài học nữa là trong điều kiện lực lượng kẻ thù còn đang rất mạnh thì việc giữ vững những nguyên tắc hoạt động bí mật và bám sát quần chúng để tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng là một vấn đề sinh tử sống còn của cơ sở Đảng. Đảng có mạnh thì phong trào quần chúng mới mạnh. Đảng muốn mạnh phải vững chắc về tổ chức, thống nhất về tư tưởng và thường xuyên liên hệ với quần chúng. Vì vậy, đến thời kỳ sau đó, vấn đề này được chú trọng đúng mức trên cơ sở tập trung xây dựng lực lượng chính trị và phát triển lực lượng bán vũ trang (tức lực lượng tự vệ) cho nên phong trào lại phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu để tiến lên giành thắng lợi một cách có hiệu quả cao nhất như giai đoạn vận động cách mạng tháng Tám năm 1945. Có thể nói, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả của quá trình xây dựng cơ sở Đảng và lực lượng cách mạng vững chắc từ năm 1930-1945. Chính đây là một nguyên nhân chủ yếu làm cho Xuân Minh thực sự trở thành nơi đứng chân quan trọng và tin tưởng của Đảng bộ Thanh Hoá trong những ngày hoạt động bí mật.
Trải qua 15 năm hoạt động, từ ngày thành lập cho đến Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng bộ tỉnh ta đã từng gặp rất nhiều bước sóng gió, khó khăn, có lúc tưởng chừng như mất trắng. Kẻ thù hàng chục lần tập trung lực lượng đánh phá dữ dội vào Đảng bộ, làm cho cơ quan lãnh đạo và các cơ sở của Đảng bộ bị tổn thất và tan dã nhiều lần. Nhưng cứ sau mỗi lần như vậy thì những cán bộ, đảng viên còn lại ở một số địa phương (trong đó có Xuân Minh), cương quyết vì sự sống còn của Đảng đã bằng mọi giá bắt mối liên lạc với nhau để củng cố, khôi phục lại Đảng bộ một cách nhanh chóng nhất nhằm duy trì và thúc đẩy phong trào tiến lên. Trong quá trình này, hầu như mảnh đất Xuân Minh đã nhiều lần liên tục trở thành địa điểm hội tụ và liên lạc của các cán bộ, đảng viên và chiến sĩ cách mạng làm nhiệm vụ củng cố, khôi phục lại đảng bộ tỉnh nhà. Các hội nghị quan trọng như hội nghị củng cố Đảng bộ để thành lập Ban tỉnh uỷ lâm thời (1934), hội nghị thống nhất các cơ sở Đảng và lực lượng cách mạng toàn tỉnh để bầu Ban cán sự Đảng (1940), hội nghị Đảng bộ Tỉnh để bàn kế hoạch hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa và quyết định thành lập vành đai căn cứ địa cách mạng ở vùng trung du lên miền núi, cùng nhiều hội nghị quan trọng khác, v.v... đã được tổ chức tại Xuân Minh và đều thu được những thắng lợi rất to lớn. Để tiến tới những hội nghị đó, tất nhiên lực lượng cách mạng của Xuân Minh đã có nhiều đóng góp đáng kể.
Nếu như năm 1930-1931, các đồng chí Đảng viên của Xuân Minh được vinh dự trực tiếp tham gia vào cuộc vận động thành lập Đảng bộ Thanh Hoá tại Tĩnh Gia (01-01-1931), và qua những lần đóng góp vào việc khôi phục, củng cố. Đảng bộ thì đến năm 1942, một số cán bộ, đảng viên của Xuân Minh sau khi vượt khỏi nhà tù đế quốc đã trở về Thanh Hoá cùng với một số đồng chí ở địa phương khác đã thành lập ra Ban liên lạc Đảng để một lần nữa củng cố lại Đảng bộ, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh bước sang giai đoạn cao trào Việt Minh đuổi giặc cứu nước và Cách mạng tháng Tám thành công.
Chính tất cả những sự đóng góp cụ thể trên đây đã mang lại niềm tự hào chính đáng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh trong suốt 15 năm đấu tranh cách mạng.
Tóm lại, 15 năm đấu tranh dưới cờ Đảng vinh quang, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh bằng tinh thần yêu nước nồng nàn và sự hy sinh vô bờ bến, bằng ý chí kiên cường, bất khuất và tinh thần sáng tạo đã góp phần tô thắm những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Với tất cả sức vóc và niềm tự hào chân chính, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Xuân Minh lại tiếp tục vững bước đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của dân tộc (1946-1954) để góp phần giữ vững nền độc lập, tự do cho Tổ quốc.
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH TRONG
CHÍN NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1945-1954)
I. CÁC PHONG TRÀO TRONG THỜI GIAN BẢO VỆ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN (1945-1946)
Vừa mới ra đời, nhưng chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước đã phải đương đầu với vô số những khó khăn, trở lực. Nạn đói khủng khiếp của năm 1945 chưa chấm dứt thì nạn lụt và hạn hán lại liên tiếp diễn ra. Bên cạnh đó, ngân sách và các kho tàng do Nhật để lại thì hoàn toàn trống rỗng, còn tất cả mọi ngành kinh tế đều trong tình trạng đình đốn và tê liệt. Di sản văn hoá lạc hậu và các tệ nạn của xã hội cũ còn lại rất nặng nề cũng là mối tai hoạ lớn.
Giữa lúc ấy, ở miền Nam, mượn tiếng đi tước vũ khí quân đội Nhật, bọn Anh đã kéo đến để mở đường cho thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. ở miền Bắc, cũng mượn danh nghĩa ấy, 20 vạn quân Tưởng tràn vào hòng tiêu diệt và lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta. Riêng Thanh Hoá, một trung đoàn Tưởng Giới Thạch đã tiến vào chiếm đóng khu vực Thị xã. Và tại đây, bọn chúng đã gây nhiều chuyện rắc rối, đe doạ và uy hiếp liên tục chính quyền cách mạng tỉnh ta.
Chính những khó khăn to lớn và dồn dập trên đây đã đặt dân tộc ta trước những thử thách mới cực kỳ nghiêm trọng, đồng thời đe doạ trực tiếp đối với sự sống còn của nền độc lập tự do mà nhân dân ta vừa giành lại được sau hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp.
Trong hoàn cảnh đó, nhân dân Xuân Minh lại cùng với nhân dân cả tỉnh và cả nước một lần nữa đứng lên theo tiếng gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch, đoàn kết muôn người như một để bảo vệ thành quả cách mạng và giữ vững quyền độc lập, tự do.
Không thể ngồi yên để Tổ quốc bị lâm nguy và vận mệnh dân tộc bị đe doạ. Ngay từ đầu, nhiều thanh niên Xuân Minh đã hăng hái lên đường, ra nhập đoàn quân Nam tiến để vào Nam chiến đấu trực tiếp với quân thù.
Một phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam đã diễn ra sôi nổi ở vùng Xuân Minh và tổng Thử Cốc. Nhiều cuộc mít tinh và biểu dương lực lượng để ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ và phản đối thực dân Pháp nấp sau phái bộ Anh để đánh chiếm Nam bộ phủ đã được tổ chức ở các làng trong tổng.
Ngày 23-9-1945, lực lượng tự vệ và quần chúng cách mạng Xuân Minh đã mang theo băng, cờ, biểu ngữ, khẩu hiệu và vũ khí xuống tham dự cuộc mít tinh biểu tình thị uy lớn ở Thiệu Hoá. Tại đây, lực lượng vũ trang và nhân dân Xuân Minh cũng như lực lượng vũ trang và nhân dân toàn huyện đã biểu lộ ý chí quyết tâm trong việc bảo vệ chính quyền cách mạng và nền độc lập tự do cho Tổ quốc. Có thể nói, từ tháng 9 đến cuối năm 1945, khí thế cách mạng ở Xuân Minh dâng lên mạnh mẽ chưa từng thấy.
Trong những ngày này, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang ở Xuân Minh không ngừng được củng cố và tăng cường. Phong trào luyện tập quân sự và tập võ dân tộc của tự vệ và dân quân du kích diễn ra sôi nổi ở các làng. Việc tuần tra canh gác và bảo vệ trật tự trị an trong thôn xóm được bố trí rất cẩn mật, chu đáo.
Để đáp ứng kịp thời cho việc bổ sung đội ngũ lãnh đạo cốt cán tại địa phương, công tác phát triển Đảng cũng bắt đầu được chú ý. Đến cuối năm 1945, cơ sở Đảng ở khu vực Xuân Minh đã có 10 đồng chí Đảng viên. Trong khi đó, toàn Đảng bộ Thanh Hoá lúc Cách mạng tháng Tám thành công chỉ có tất cả 50 đồng chí. Đó là những hạt nhân ưu tú đóng góp rất tích cực cho việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cơ sở.
Sau Cách mạng tháng Tám, những cải cách dân chủ đã được thực hiện từng bước rất có kết quả. Việc xoá bỏ mọi thứ thuế và nợ nần bất công do chế độ thực dân, phong kiến để lại, việc ban hành các quyền tự dân chủ, việc qui định giảm tô 25% và chia lại ruộng công điền, công thổ và ruộng vắng chủ cho nông dân một cách công bằng, hợp lý, v.v... là những việc làm cụ thể làm cho nhân dân Xuân Minh và nhân dân các nơi khác trong cả tỉnh, cả nước hết sức phấn khởi, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch. Nhờ đó mà đã động viên được sự đóng góp to lớn của nhân dân trong thời kỳ bảo vệ và củng cố chính quyền.
Để thiết thực góp phần vào việc giải quyết nạn đói còn đang hoành hành do hậu quả của chế độ thực dân, phong kiến và thiên tai để lại, chấp hành chủ trương của Chính phủ và hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, chính quyền nhân dân cách mạng lâm thời ở các làng của Xuân Minh đã phát động một phong trào tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm rất phong phú, sôi nổi. Tiêu biểu nhất là phong trào khai hoang, vỡ hoá thực hiện tấc đất, tấc vàng được triển khai nhanh chóng ở tất cả các làng. Đặc biệt, ở làng Thiên Lộc, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ, Ngọc Trung là những nơi còn nhiều hoang dậm đã được chính quyền và các đoàn thể chỉ đạo thực hiện rất tốt. Chỉ sau một thời gian ngắn, cả bảy làng đã vỡ hoang, vỡ hoá được hơn 15 mẫu đất, góp phần mở rộng diện tích canh tác tại địa phương. Từ trên những miếng đất mới được khai phá và trên các mảnh vườn của mình, quần chúng nhân dân đã nhanh chóng trồng được nhiều loại hoa màu ngắn ngày như ngô, khoai, sắn và các loại rau, bầu, bí, v.v... để kịp thời giải quyết những yêu cầu bức xúc về đời sống lúc này.
Trong lúc khó khăn, đói kém, quần chúng nhân dân Xuân Minh đã phát huy cao độ tinh thần nhường cơm, xẻ áo để giúp đỡ lẫn nhau. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về đời sống, nhưng phong trào quyên góp dưới hình thức vận động đồng tâm bớt bữa vẫn được quần chúng nhân dân ở đây hưởng ứng rất tích cực. Trong cả 7 làng, số gạo đồng tâm đã thu được trên 10 tạ để mang lên huyện giúp đỡ đồng bào ở những vùng còn bị đói kém hơn. Từ phong trào đồng tâm bớt bữa lại chuyển sang phong trào hũ gạo tiết kiệm và mỗi lần thu được cũng có tới vài tạ. Chính các phong trào này đã góp phần tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đồng thời đẩy lùi được nạn đói, ổn định được sản xuất và đời sống tại địa phương.
Để khắc phục tình trạng tài chính, ngân sách do Nhật để lại hoàn toàn bị trống rỗng, thiếu hụt, ngoài việc nhanh chóng ổn định các guồng máy hoạt động kinh tế và thực hiện một số biện pháp tích cực khác, Chính phủ đã phát động một phong trào tự nguyện đóng góp rộng lớn trong toàn dân với tên gọi là tuần lễ vàng và tuần lễ đồng. Hưởng ứng phong trào này, nhân dân trong 7 làng của Xuân Minh đã quyên góp được 57 đôi vòng, nhẫn vàng, bạc và gần 4 tạ đồng để giao nộp cho Chính phủ. Ngoài ra, còn rất nhiều người còn ủng hộ cả tiền bạc và thóc gạo. Câu ca:
Đeo vàng chỉ tổ nặng tai
Đeo vòng nặng cổ hỡi ai có vàng...
được tuyên truyền phổ biến lúc đó có tác dụng khích lệ tinh thần quần chúng rất cao. Tại cuộc mít tinh của tổng ở Trường Quanh, một số chị em của Xuân Minh đã tự nguyện cởi vòng, nhẫn để đóng góp đã tạo ra khí thế thi đua sôi nổi. Đó là những biểu hiện tốt đẹp về lòng yêu nước của nhân dân Xuân Minh.
Ngày 31-1-1946, để cải cách tiền tệ, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam, được nhân dân Xuân Minh và nhân dân cả nước hoan nghênh và tín nhiệm.
Bên cạnh việc phát động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm và đóng góp ủng hộ cho nền tài chính của nhà nước thì ở Xuân Minh, công tác văn hoá, giáo dục, y tế và xã hội cũng được chú trọng đúng mức. Đặc biệt, việc thanh toán nạn mù chữ đã được phát động mạnh mẽ và trở thành một phong trào quần chúng sôi nổi, đều khắp ở tất cả các làng. ở làng nào, ban bình dân học vụ cũng tổ chức được nhiều lớp học theo từng lứa tuổi, có làng tổ chức được 3, 4 lớp, có làng tổ chức được 7, 8 lớp. Nhiều hình thức động viên, khen thưởng, phê bình và kiểm tra được tiến hành liên tục rất sinh động. Nhờ đó mà chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào thanh toán nạn mù chữ ở Xuân Minh đã đạt được nhiều thành tích rất đáng kể vì đã thu hút được đông đảo mọi tầng lớp già, trẻ, gái, trai trong nhân dân tham gia. Ai ai cũng lấy việc đi học để biết đọc, biết viết là trách nhiệm và nghĩa vụ của một người dân yêu nước. Các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê, Ngọc Trung luôn luôn được tỉnh, huyện và tổng biểu dương và khen thưởng về thành tích thanh toán nạn mù chữ.
Thời gian này, chính quyền, đoàn thể ở các làng đã huy động nhân dân mở mang nhiều đường xá trong thôn xóm để phục vụ cho việc giao thông đi lại được thuận tiện. Đặc biệt, đường liên hương, liên xã được mở rộng từ 3-5m. Đây cũng là việc làm rất lớn. Nhiều gia đình đã tự nguyện hy sinh cả ruộng, vườn, đất đai, cây cối để phục vụ cho việc mở đường.
Công tác vệ sinh phòng bệnh cũng được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Việc đào mới và tu sửa lại giếng ăn, việc phát quang để chống muỗi sốt rét, việc làm nghĩa địa tập trung, việc ăn chín uống sôi, việc dọn sạch sẽ trong thôn xóm, v.v... là những việc làm rất hữu ích có tác dụng ngăn chặn được bệnh dịch. Đây là những việc làm ý nghĩa và có tính cách mạng rất nổi bật. Ngoài ra, chính quyền và các đoàn thể còn vận động nhân dân ăn mặc theo đời sống mới (như vận động chị em phụ nữ bỏ váy thay quần, cắt tóc ngắn và không nhuộm răng đen, v.v...) và bãi bỏ các tục lệ lạc hậu mê tín dị đoan, ăn uống linh đình. Mọi đám ma, đám cưới đều do các đoàn thể đứng ra tổ chức theo đời sống mới cho nên đỡ hẳn được sự tốn kém cho nhân dân.
Nói chung, bộ mặt làng xóm và cuộc sống mới của nhân dân Xuân Minh so với chế độ cũ đã thay đổi về cơ bản. Mọi hoạt động kinh tế, xã hội đã đi dần vào thế ổn định và từng bước tiến lên vững chắc. Những khó khăn đầu tiên dần dần được đẩy lùi. Quần chúng nhân dân rất đoàn kết, phấn khởi và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch.
Để củng cố chính quyền và phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, tạo thêm sức mạnh to lớn trong việc khắc phục mọi khó khăn và chiến thắng mọi thế lực kẻ thù, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã quyết định một cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội lần đầu tiên trong cả nước.
Tại Xuân Minh, trước mấy ngày bầu cử, các cuộc hội nghị, mít tinh, rước đuốc, cổ động tuyên truyền được tổ chức liên tục rất sôi nổi và náo nhiệt. Băng, cờ, biểu ngữ, khẩu hiệu mọc lên chi chít khắp nơi. Đình làng được chọn làm địa điểm cho cuộc bầu cử được trang hoàng lộng lẫy và trang trọng.
Đúng sáng ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử được tiến hành tại các làng của Xuân Minh cũng như ở khắp các miền đất nước. Đây đúng là ngày hội lớn của toàn dân tộc. Lần đầu tiên, nhân dân Xuân Minh cùng nhân dân cả nước được tự tay cầm lá phiếu để bầu những người có tín nhiệm nhất vào Quốc hội cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước. Đó là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân ở một nước vừa mới giành được độc lập và tự do. Cuộc tổng tuyển cử lần này mang tính chất đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay gắt vì trên phạm vi cả nước, thù trong, giặc ngoài đang uy hiếp, đe doạ một cách nghiêm trọng. Tuy vậy, cuộc tổng tuyển cử vẫn diễn ra thắng lợi. Đó là một biểu hiện điển hình về sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân có ý chí sắt đá tự định đoạt lấy vận mệnh của mình.
Tháng 2-1946, sau cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội, nhân dân Xuân Minh lại tiếp tục tham gia cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp tại địa phương. Lúc này, hệ thống tổng giải tán, để thay thế vào đó là hệ thống xã. Theo quyết định của trên, toàn bộ tổng Thử Cốc được cắt chuyển về huyện Thọ Xuân và được chia ra thành 4 xã là: ái Quốc, Cao Thắng, Thọ Trường và Thọ Phú1. Các làng Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ, Thiên Lộc của Xuân Minh cùng với hai làng Trung Lập, Đại Thắng của xã Xuân Lập bây giờ là thuộc về xã ái Quốc. Chỉ có làng Phong Cốc là thuộc về xã Cao Thắng.
Bầu cử Hội đồng nhân dân xong thì Uỷ ban hành chính được thành lập để thay thế UBND cách mạng lâm thời được thành lập trong những ngày đầu tổng khởi nghĩa. Chính quyền ở làng không gọi là Uỷ ban nữa, mà chỉ gọi là tiểu ban thôn. Người đứng đầu thôn gọi là trưởng thôn.
Lúc này, Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Cao Thắng là đồng chí Nguyễn Xuân Oanh, và Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã ái Quốc là đồng chí Đỗ Huy Trinh.
Sau khi thành lập Uỷ ban hành chính xã và củng cố lại chính quyền ở các làng thì Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng cũng được tổ chức lại từ xã đến làng.
Qua cuộc bầu cử HĐND, khối đoàn kết toàn dân ở Xuân Minh lại được củng cố vững chắc. Đó là nhân tố rất quan trọng đóng góp cho việc thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã đề ra.
Đến cuối năm 1946, ở xã ái Quốc và Cao Thắng đều đã thành lập được Chi bộ riêng1. Mặc dù chưa ra hoạt động công khai nhưng Chi bộ Đảng vẫn đóng vai trò lãnh đạo chặt chẽ các đoàn thể, chính quyền, mặt trận Việt Minh và lực lượng vũ trang thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng tại địa phương. Nhờ đó mà phong trào ở đây phát triển rất toàn diện và đúng hướng. Lúc này, công tác bồi dưỡng nhận thức và lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên cũng bắt đầu được chú ý để đáp ứng với sự đòi hỏi ngày càng cao của công tác lãnh đạo.
Từ giữa năm 1946 trở đi, công tác xây dựng lực lượng tự vệ và dân quân du kích ở xã và các làng lại càng được chú ý tăng cường hơn. Không khí luyện tập quân sự và sẵn sàng chiến đấu diễn ra thật sôi động. Quần chúng nhân dân tích cực ủng hộ tiền bạc, thóc gạo, lợn, bò, v.v... cho tự vệ, dân quân du kích bồi dưỡng tập luyện và trang bị thêm vũ khí.
Giữa lúc nhân dân ta đang ra sức thi đua củng cố chính quyền và đẩy mạnh mọi hoạt động kinh tế, xã hội để khắc phục những khó khăn sau Cách mạng tháng Tám thì ở nước ta, tình hình chính trị diễn biến càng căng thẳng và phức tạp. Nguy cơ của một cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài trên phạm vi toàn quốc mỗi ngày một đến gần.
Ngày 20-11-1946, thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng ngàn quân lên Đà Nẵng. Ngày 18-12-1946, sau nhiều vụ khiêu khích trắng trợn, chúng gửi thư đòi tước vũ khí của tự vệ thủ đô và cự tuyệt việc tiếp xúc, đàm phán với Chính phủ ta. Ngày 19-12-1946, cục diện chiến tranh thực sự lan rộng ra toàn quốc và cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ của nhân dân ta bùng nổ.
Thế là, sau 16 tháng giữ vững và củng cố chính quyền (9-1945 đến 12-1946), nhân dân Xuân Minh cùng với nhân dân cả tỉnh và cả nước lại tiếp tục bước vàocuộc kháng chiến thần thánh vô cùng vĩ đại của dân tộc với một quyết tâm cao độ nhất.
II. NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA NHÂN DÂN XUÂN MINH TRONG NHỮNG NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1947-1954)
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngay trong đêm 19-12-1946 thì sang ngày 20-6-1946, Hồ Chủ Tịch đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến để động viên, khích lệ mọi tầng lớp nhân dân ta chiến đấu đến cùng để bảo vệ nền Độc lập tự do trên tinh thần thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ1.
Ngày 22-12-1946, Trung ương Đảng lại ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến để xác định mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, đồng thời vạch ra phương châm của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.
Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch và thực hiện đường lối kháng chiến của Trung ương Đảng cùng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ Tỉnh, ở Xuân Minh ngay từ những ngày đầu, phong trào chuẩn bị kháng chiến đã diễn ra rầm rộ và rộng khắp. Phong trào củng cố tăng cường lực lượng tự vệ, dân quân du kích cùng với việc luyện tập quân sự, tuần tra canh gác và sẵn sàng chiến đấu được chú trọng đặc biệt. Các đoàn thể mặt trận, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên và dân quân du kích tổ chức nhiều cuộc mít tinh, rước đuốc, tuần hành, cắm trại và đốt lửa căm hờn để biểu thị tinh thần quyết tâm kháng chiến cứu Tổ quốc. Một phong trào hành động đền nợ nước được phát động sôi nổi ở các làng để đẩy nhanh, đẩy mạnh công tác chuẩn bị kháng chiến và sản xuất tự túc ở địa phương.
Tháng 2-1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của trên, một bộ phận dân quân du kích của các làng ở Xuân Minh được điều động xuống Thị xã Thanh Hoá và phố Thọ Xuân để phá huỷ nhà cửa, đường sắt, đường ô tô và cầu cống nhằm chặn bước tiến của quân thù. Bộ phận tự vệ và dân quân du kích còn lại cùng nhân dân đào phá con đường từ cầu Vàng đến Phong Lai và đắp rất nhiều ụ chướng ngại vật. Chỉ hơn 10 ngày, nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến đã cơ bản hoàn thành.
Tiếp sau đó, việc xây dựng làng kháng chiến cũng được xúc tiến một cách khẩn trương và nhanh chóng. Nhân dân đã đóng góp rất nhiều tre gai để rào làng. Hàng ngàn nhân công được huy động vào việc đào giao thông hào và đắp các ụ trực chiến ở xung quanh làng. Còn ở các gia đình thì nhân dân đều đào đắp các hầm trú ẩn và hầm cất giữ tài sản, lương thực. Đến giữa năm 1947, các làng của Xuân Minh đã thực sự trở thành những pháo đài kháng chiến kiên cố và vững chắc.
Để tập trung tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo cơ sở hoàn thành mọi nhiệm vụ mà cuộc kháng chiến yêu cầu, cũng vào thời gian đầu năm 1947, tỉnh lại chủ trương tháp các xã nhỏ để thành lập xã mới. Lúc này xã Minh Nghĩa được thành lập trên cơ sở tháp 3 xã cũ là ái Quốc, Cao Thắng và Minh Nghĩa1. Chính quyền, đoàn thể nhanh chóng được kiện toàn lại. Đồng chí Đỗ Huy Trinh lại được cử làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Minh Nghĩa. Đồng chí Trịnh Văn Lập là Bí thư Chi bộ, đồng chí Đỗ Huy Dũng là Chủ nhiệm Việt Minh2.
Công tác phát triển Đảng trong kháng chiến được đặc biệt chú trọng và từng bước thực hiện rất kết quả. Trong hai năm 1948-1949, tốc độ phát triển Đảng ở đây diễn ra thật nhanh chóng và đạt được con số rất đáng kể. Nếu như lúc mới thành lập (1947), Chi bộ Minh Nghĩa chỉ có 11 đảng viên (mà hầu hết là của Xuân Minh) thì đến năm 1949, con số của Chi bộ đã lên đến 340 đảng viên. Đây là con số kỷ lục thể hiện sự phát triển vượt bậc của cơ sở Đảng và phong trào ở đây. Có thể nói, trong những năm kháng chiến, Chi bộ Minh Nghĩa đã tỏ rõ vai trò lãnh đạo các đoàn thể, chính quyền cùng mọi tầng lớp nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Chính vì vậy mà Xuân Minh nói riêng và Minh Nghĩa nói chung luôn luôn là một cơ sở hậu phương vững chắc, cung cấp đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường và biết tổ chức chiến đấu tốt để bảo vệ địa phương.
Vì là nơi có cơ sở Đảng và phong trào mạnh, cho nên tháng 4-1948, Xuân Minh lại được chọn làm địa điểm cho hội nghị mở rộng của Đảng bộ Tỉnh để bàn về công tác xây dựng Đảng1
Đến năm 1949, Chi bộ Minh Nghĩa đã phấn đấu và đạt được ba danh hiệu Tự động, Tiến bộ và Gương mẫu do Tỉnh Đảng bộ phát động.
Song song với công tác xây dựng và phát triển Đảng, việc đào tạo, bồi dưỡng cốt cán cũng được chú trọng đúng mức để đáp ứng kịp thời với sự đòi hỏi ngày càng cao của công tác lãnh đạo, chỉ đạo các phong trào ở cơ sở. Lúc này, các đồng chí cán bộ, Đảng viên của Xuân Minh liên tiếp được tham dự các lớp huấn luyện chính trị, quân sự do tỉnh, huyện tổ chức. Nhờ đó mà trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác Lê nin, về các đường lối, chủ trương chính sách trong kháng chiến của Đảng của cán bộ, Đảng viên Xuân Minh được nâng cao không ngừng. Qua đào tạo, thử thách, nhiều đồng chí đã được điều động lên huyện, lên tỉnh công tác để đảm nhận những trọng trách lớn hơn.
Mặc dù không phải là vùng trực tiếp xảy ra chiến sự, nhưng ở Xuân Minh, nhiệm vụ đề cao cảnh giác và tổ chức tốt mọi điều kiện để bảo vệ vững chắc hậu phương trong mọi tình huống vẫn được xác định một cách sâu sắc trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vấn đề xây dựng mạnh mẽ lực lượng tự vệ và dân quân du kích lúc này vẫn là một nhiệm vụ cần kíp và rất quan trọng. Từ năm 1947 trở đi, ngoài lực lượng dân quân du kích tập trung của xã (lúc đó gọi là chủ lực xã) làm nhiệm vụ cơ động sẵn sàng chiến đấu thì ở mỗi làng, các đội tự vệ và dân quân du kích vẫn được thành lập riêng để làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác và bảo vệ địa phương. ở xã và các làng còn tổ chức được các đội lão quân, nữ quân và thiếu sinh quân. Năm 1949, xã đội được thành lập. Đồng chí xã đội trưởng đầu tiên là đồng chí Trịnh Văn Hảo (tức Đài). Trong những năm kháng chiến, lực lượng tự vệ và dân quân du kích của Xuân Minh đã trở thành một lực lượng nòng cốt chủ yếu để bảo vệ địa phương, và qua rèn luyện, thử thách, đã đạt nhiều thành tích trong huấn luyện, trong tổ chức sẵn sàng chiến đấu, cho nên luôn luôn được cấp trên biểu dương và khen thưởng. Đây cũng chính là nguồn dự trữ quan trọng để bổ sung liên tục cho lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Và thực tế, rất nhiều đồng chí đã được cầm súng tham gia chiến đấu trực tiếp ở các chiến trường.
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Minh là một trong những cơ sở đứng chân quan trọng của Đảng bộ Thanh Hoá thì giờ đây lại trở thành một trong những cơ sở hậu phương đáng tin cậy của cuộc kháng chiến.
Trong suốt những năm kháng chiến, các làng ở Xuân Minh đã liên tiếp đón nhận nhiều đơn vị, cơ quan về đóng tại địa phương như:
- Xưởng vũ khí Phạm Hồng Thái của Trung ương
- Ngân hàng liên khu Ba.
- Công đoàn Liên khu Ba.
- Trại điều dưỡng Liên khu Ba.
- Bệnh viện K71 của tỉnh.
- Trại thương binh tỉnh
- Các đơn vị bộ đội 304, 308, 312 và một bộ phận cơ quan cố vấn, cùng các kho tàng vũ khí, lương thực v.v...
Ngoài ra, Xuân Minh còn là nơi được chọn làm địa điểm cho nhiều cuộc họp và nhiều lớp huấn luyện của các cấp, các ngành của tỉnh và liên khu ba.
Trong thời gian đóng ở đây, dù là một vài năm, hay suốt cả cuộc kháng chiến, các cơ quan, đơn vị của trên đều được nhân dân Xuân Minh giành cho sự giúp đỡ nhiệt tình, to lớn về nhiều phương diện (như việc giúp đỡ từ nơi ăn, chốn ở và các phương tiện sinh hoạt đời sống đến các việc vận chuyển, làm lán trại, hoặc việc săn sóc, thăm hỏi động viên và tặng biếu tiền bạc, thóc gạo, trâu bò, vải vóc, quà bánh, v.v...). Tất cả những cái đó đều biểu hiện sự nhiệt tình cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân Xuân Minh. Và chính vì thế mà tình cảm công nông binh được củng cố, tăng cường hơn bao giờ hết. ở đây, tình cảm quân dân thật đúng là như cá với nước. Biết bao nhiêu hình ảnh cảm động về sự săn sóc, giúp đỡ bộ đội và thương binh của các tầng lớp quần chúng nhân dân Xuân Minh (mà đặc biệt là giới bà mẹ và phụ nữ) đã từng diễn ra một cách không thể nào kể hết, đã có tác dụng gây được những ấn tượng thật mạnh mẽ và sâu sắc trong tình cảm, tâm hồn của những người chiến sĩ về tấm lòng của người hậu phương.
Mặc dù là nơi có nhiều đơn vị, cơ quan đóng quân và nơi mà cấp trên thường hay tổ chức các cuộc hội nghị, nhưng Xuân Minh vẫn là một địa điểm an toàn về mọi phương diện. Điều đó cũng chứng tỏ rằng công tác trị an và việc đề cao cảnh giác của nhân dân Xuân Minh là rất tốt. Tại đây, trong những năm kháng chiến, mọi âm mưu xuyên tạc, phá hoại của địch đều được ngăn chặn kịp thời, tuyệt đối không hề có một kẻ gian nào có thể lọt vào vùng hậu cứ vững chắc và tin tưởng này.
Đi đôi với các công tác củng cố chính quyền, xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang và tổ chức bảo vệ vững chắc hậu phương trong mọi tình huống, việc ra sức phát triển kinh tế trong kháng chiến ở Xuân Minh cũng được chú trọng thường xuyên để ngày một đảm bảo trong việc cải thiện đời sống và cung cấp đầy đủ các nhu cầu cho chiến trường.
Năm 1947, cuộc vận động giảm tô 25% và chia lại công điền, công thổ cùng các loại ruộng vắng chủ ở Xuân Minh vẫn được tiến hành tiếp tục và thu được nhiều kết quả rất đáng mừng. Nông dân được giảm tô và có thêm ruộng đất để cày cấy cho nên rất phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và hăng hái tham gia tích cực vào các phong trào đẩy mạnh sản xuất ở địa phương.
Tháng 3-1948, thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch với nội dung người người thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, Uỷ ban kháng chiến hành chính Minh Nghĩa đã phát động một phong trào thi đua sản xuất sôi nổi và rộng khắp. Phong trào này đã được các giới, các đoàn thể và quần chúng nhân dân hưởng ứng tích cực. Một chiến dịch dọn bèo tây ở các hồ, mau nhằm lấy thêm diện tích canh tác, thả cá và phục vụ đời sống của lực lượng thanh niên được thực hiện nhanh chóng và rất kết quả. Để giữ nước gieo cấy và chống hạn, chính quyền còn huy động nhân dân ở các làng tập trung vào việc đào mương, đào giếng, đắp đập, khơi ngòi lấy nước ở khắp các xứ đồng.
Lúc này, một số biện pháp khoa học kỹ thuật từng bước được đưa vào thực hiện trong sản xuất đã có tác dụng nâng cao được năng suất (như việc cấy lúa một nhánh cho bông chắc, hạt mẩy để nhân giống, việc cày sâu bừa kỹ, việc gieo mạ đúng kỹ thuật, hay việc trồng khoai ụ, lấy bùn làm phân, v.v...). Đến năm 1950 thì có phong trào làm phân bắc bón ruộng.
Từ trong phong trào thi đua sản xuất, ở làng nào của Xuân Minh cũng xuất hiện những chiến sĩ thi đua nông nghiệp tiêu biểu. Đó là những hạt nhân ưu tú đóng góp rất thiết thực cho sự lớn mạnh của phong trào.
Tháng 7-1948, xã Minh Nghĩa đã tổ chức được một cuộc triển lãm nông nghiệp tại đình Xá Lê. Đây là cuộc triển lãm của một xã đầu tiên trong kháng chiến ở huyện Thọ Xuân. Cuộc triển lãm này không những chỉ trưng bày giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp điển hình (như lúa, bông, ngô, khoai, sắn, đậu, lạc và các hoa mầu khác) mà còn trưng bày giới thiệu cả các sản phẩm thủ công nghiệp (như cày, bừa, cuốc, vải sợi, thúng, rổ, gầu, bẳn, v.v...). Các loại tranh tự sáng tác để mô tả các phong trào sản xuất của các hoạ sĩ nghiệp dư cũng rất sinh động. Rất nhiều cán bộ, đoàn thể và nhân dân ở các xã trong huyện đã đến Xuân Minh để tham quan cuộc triển lãm. Có thể nói, cuộc triển lãm này đã kích thích được tinh thần thi đua sản xuất giữa các làng và các địa phương với nhau để làm ra ngày một nhiều những sản phẩm nông nghiệp phục vụ đời sống và kháng chiến.
Năm 1948, 1949, phong trào tổ đổi công, vần công, ở Xuân Minh phát triển mạnh mẽ và phổ biến. Cuối năm 1949, trong 7 làng của Xuân Minh đã có tới gần mấy chục tổ đổi công, vần công. Trên 95% số hộ nông dân đã tham gia vào tổ chức này. Đến năm 1950, các làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê là những làng đầu tiên tổ chức được hợp tác xã sản xuất nông nghiệp dưới hình thức giản đơn để hướng dẫn, tập dượt nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Trong điều kiện nhân lực lao động huy động ngày càng nhiều cho cuộc kháng chiến thì việc tổ chức nông dân vào các tổ đổi công, vần công và hợp tác xã như vậy là rất tích cực. Nhờ đó mà khối đoàn kết nông thôn được tăng cường và phát huy sức mạnh to lớn trong sản xuất, canh tác, khắc phục hậu quả thiên tai và thay đổi được lối làm ăn lạc hậu, cũ kỹ, đồng thời tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tương trợ, giúp đỡ những gia đình khó khăn, neo đơn và có người đi chiến trường.
Vì có sự chỉ đạo chặt chẽ của Chi bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể, cộng với việc phát động thi đua liên tục, cho nên phong trào sản xuất của Xuân Minh trong những năm kháng chiến rất phát triển. Mấy năm liền, các làng đều được mùa, làm cho nhân dân rất phấn khởi. Năng suất lúa bình quân trước Cách mạng tháng Tám chỉ được 60-70 cân một sào, nhưng trong những năm kháng chiến đã tăng lên được 100-120 cân một sào. Riêng về bông thì vùng Xuân Minh là một trọng điểm bông của tỉnh và của huyện. Trong cả 7 làng, diện tích trồng bông là 150 mẫu. Lúc này, các làng đều thực hiện bỏ bông cỏ để sản xuất bông lùi và bông quan nông.
Tháng 4-1951, Ty Nông nghiệp đã tổ chức một cuộc họp ở làng Phong Cốc để rút kinh nghiệm về kỹ thuật trồng bông ở Xuân Minh. Đến tháng 9-1951, Ty Nông nghiệp lại tổ chức tiếp cuộc họp ở Phong Cốc để rút kinh nghiệm về việc trồng lúa vụ mùa và việc cấy lúa một nhánh để nhân giống của các làng ở đây. Thời gian này, nhờ mạnh dạn du nhập nhiều giống lúa mới như lúa mấu, dé hoa và chiêm tây cùng với các biện pháp kỹ thuật canh tác mới, cho nên năng suất mỗi ngày một tăng lên.
Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, việc chăn nuôi gia súc, đặc biệt là bò cũng rất được chú ý. Toàn xã có đến gần một ngàn con bò. Đó là nguồn sức kéo rất quan trọng ở địa phương.
Nghề quay tơ, kéo sợi và dệt vải cũng được khuyến khích đẩy mạnh hơn. Toàn xã Minh Nghĩa có trên một ngàn khung dệt thì riêng Xuân Minh đã có hơn một nửa. Lúc đó vải Phong Cốc, lụa Phong Lai là rất có tiếng. Trong kháng chiến, Xuân Minh là một trong những địa phương của tỉnh sản xuất và cung cấp được nhiều nhất về vải và sợi, góp phần tích cực cho nhu cầu của bộ đội ở chiến trường.
Được sự quan tâm, cổ vũ của tỉnh và huyện, phong trào văn hoá, xã hội của Xuân Minh trong những năm kháng chiến phát triển rất mạnh mẽ và sâu rộng. Đến năm 1950, công tác xóa nạn mù chữ ở 7 làng của Xuân Minh cơ bản đã hoàn thành. Vì vậy mà đến năm 1956, Xuân Minh đã vinh dự được Chính phủ tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba về thành tích diệt dốt và xoá nạn mù chữ. Từ phong trào này mà nhiều chiến sĩ diệt dốt của Xuân Minh đã xuất hiện với những thành tích rất xuất sắc. Song song với phong trào xoá nạn mù chữ thì việc phổ cập trình độ văn hoá cấp I ở đây cũng rất được chú ý. Các làng như Phong Cốc, Thuần Hậu, Xá Lê và Ngọc Trung đã tổ chức được một số lớp học từ lớp 1 đến lớp 5 trên cơ sở tự túc và mời thầy ở các nơi về dạy.
Do sự đòi hỏi ngày càng tăng của công tác văn hoá, giáo dục, cho nên đến năm 1949, chính quyền xã Minh Nghĩa đã tổ chức được một trường cấp II lấy tên là Trần Hưng Đạo. Trường được đặt ở nghè Xá Lê rồi sau đó lại chuyển ra Phong Cốc. Đây là xã đầu tiên trong huyện đã có trường cấp II. Trong khi đó, toàn huyện mới chỉ có một trường cấp II Đào Duy Từ (ở Xuân Lộc, Triệu Sơn bây giờ) là trường học của tỉnh sơ tán về đó. Trường cấp II Trần Hưng Đạo ở Xuân Minh có 4 lớp, mỗi lớp có từ 45-50 học sinh. Nhiều thầy giáo có tiếng đã được mời về đây để dạy. Mặc dù là trường của xã, nhưng đã thu hút được đông đảo con em nhân dân trong, ngoài huyện tham dự. Từ mái trường này ra đi, có học sinh đã phấn đấu trở thành những cán bộ khoa học có tên tuổi (như GS.TS. Nguyễn Văn Hiệu) và rất nhiều người đã thành đạt trong bước đường công tác chính trị, quân sự và khoa học nước ta.
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào xoá nạn mù chữ, bình dân học vụ và sự ra đời của trường cấp II Trần Hưng Đạo cho nên xã Minh Nghĩa mà trước hết là các làng của Xuân Minh đã được Ty Giáo dục công nhận là nơi có phong trào tiêu biểu.
Về y tế, đến năm 1949, một trạm xá của xã được xây dựng ở làng Thuần Hậu gồm 6 giường bệnh với 2 cán bộ y tế và 2 nữ hộ sinh. Và đây cũng là xã đầu tiên của huyện Thọ Xuân đã xây dựng được trạm xá. Trước năm 1945, toàn huyện chưa có nổi một nơi chữa bệnh, thế mà giờ đây, ở một xã, trong điều kiện của cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, việc ra đời một trạm xá như vậy là một cố gắng và tiến bộ vượt bậc của nhân dân Xuân Minh. Và điều đó cũng là sự biểu hiện rõ nét về tính ưu việt của chế độ mới so với chế độ cũ.
Trong kháng chiến, do công tác vệ sinh phòng bệnh được chú ý tăng cường đúng mức, cho nên đã đẩy lùi được các nạn dịch tả, sốt rét, đậu mùa, v.v... Nạn hữu sinh vô dưỡng đã giảm được đến mức tối đa. Tuổi thọ trung bình của nhân dân được tăng lên trông thấy. Lúc này, việc diệt muỗi, diệt ruồi, diệt chuột, việc đào giếng ở nơi công cộng, việc làm nhà xí ở các gia đình, việc dọn dẹp vệ sinh, v.v... là những việc thường xuyên được phát động. Nhờ đó mà làng xóm ở Xuân Minh mỗi ngày một trở nên phong quang và sạch đẹp.
Đình làng bây giờ không còn là nơi ăn uống rượu chè mà đã trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hoá, chính trị của địa phương.
Các tệ nạn mê tín dị đoan và các hũ tục lạc hậu còn rớt lại hoàn toàn bị xoá bỏ. Cuộc sống mới vui tươi lành mạnh bao trùm khắp nhân dân. ở Xuân Minh, làng nào cũng có đội văn nghệ. Nhiều tiết mục tự biên tự diễn ra đời rất bám sát nhiệm vụ chính trị, đã có tác dụng động viên cổ vũ mạnh mẽ phong trào của quần chúng nhân dân. Tại đây, bên cạnh việc phát huy văn hoá truyền thống như hát bội, hát tuồng và hát chèo thì ca hát mới và kịch nói cũng rất được chú ý phát triển. Trong kháng chiến, các đội văn nghệ của Xuân Minh còn là những đội tuyên truyền đã góp phần làm cho thôn xóm thêm từng bừng, náo nhiệt.
Hàng năm, chính quyền đoàn thể còn tổ chức nhiều cuộc thi bơi, đua thuyền, đấu vật, đấu võ, đánh cù, v.v... rất sôi nổi.
Nói chung, cuộc sống trong kháng chiến của nhân dân Xuân Minh vẫn không ngừng đổi mới và đa dạng. Mặc dù có nhiều bận rộn, vất vả nhưng nhân dân vẫn lạc quan tin tưởng ở tương lai tiền đồ tươi sáng của cách mạng.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái, tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch để đóng góp ngày một nhiều những đòi hỏi cấp thiết của cuộc kháng chiến.
Ngay từ năm 1946, phong trào đảm phụ quốc phòng ở đây đã diễn ra khá mạnh, cứ mỗi đợt cũng thu được vài tấn lúa và mấy ngàn bạc. Rồi cứ thế trong những năm kháng chiến, các phong trào ủng hộ và đóng góp đều thu hút được sự tham gia tích cực của nhân dân.
Trong phong trào lúa hoá giá (năm 1948), riêng các làng của Xuân Minh cũng thu mua được gần 20 tấn (gia đình bán ít nhất là 1 thăng = 20kg, gia đình nhiều nhất là 50 thăng = 1 tấn) và phong trào lúa khao quân (1949) đã thu mua được trên 10 tấn.
Trong tuần lễ dân quân tự túc và cấp dưỡng bộ đội địa phương (1949-1950) do tỉnh phát động đã thu được những kết quả rất đáng phấn khởi. Đây chính là cuộc vận động lớn có tính chất quần chúng sâu rộng nhằm mục đích giải quyết cho bộ đội ta ăn no để đánh thắng quân thù. Dưới sự lãnh đạo sâu sát của Chi bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể đã đề ra được nhiều biện pháp tổ chức thực hiện rất có hiệu quả. Một ban vận động chung từ xã xuống các làng được thành lập. Các hình thức vận động tuyên truyền như mít tinh, cổ động, làm vè ca ngợi, hay làm ghế danh dự cho những người đóng góp cao ngồi, v.v... đã có tác dụng rất mạnh đến sự tham gia đóng góp của nhân dân. Nhiều gia đình đã tự nguyện ủng hộ cả ruộng đất, trâu bò và các dụng cụ sản xuất để bộ đội và dân quân du kích cày cấy. Các gia đình khác lại ủng hộ tiền bạc, vải vóc, thóc gạo, hoặc nồi xanh, bát, đĩa cùng nhiều thứ khác cho bộ đội. Những ngày kêu gọi đóng góp thật đúng như một ngày hội. Kết quả đã thu được bốn chục vạn đồng (bạc tài chính lúc đó) và vài chục tấn lúa cùng hàng chục trâu bò và rất nhiều tài sản khác. Trong đợt tổng kết của huyện thì xã Minh Nghĩa được công nhận là một đơn vị đóng góp tiêu biểu nhất vì đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Năm 1950, trong phong trào mua công phiếu kháng chiến, riêng các làng của Xuân Minh đã thu được 126.300 đồng và phong trào mua công trái quốc gia (1951) lại thu được 199.280 đồng và 15 tạ lúa. Trong phong trào này, có nhiều gia đình mua phiếu hạng A từ một ngàn đồng trở lên. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, phụ lão, thiếu nhi, dân quân du kích... cũng tổ chức lao động gây quỹ để mua công phiếu kháng chiến và công trái quốc gia.
Ngoài ra, những cuộc vận động ủng hộ quĩ mua súng, quĩ Tỉnh Đảng bộ, v.v... cũng được nhân dân Xuân Minh hưởng ứng rất đông đảo.
Nói chung, qua các phong trào đóng góp, ủng hộ kháng chiến, nhân dân Xuân Minh đã biểu lộ một cách sâu sắc về truyền thống yêu nước và nhiệt tình cách mạng rất cao của mình. Tỉnh và huyện luôn luôn đánh giá cao về sự đóng góp, ủng hộ tích cực của nhân dân Xuân Minh.
Cuộc kháng chiến thần thánh của ta càng phát triển cao thì càng đòi hỏi sự đóng góp sức người sức của mỗi ngày một nhiều của nhân dân. Do đó, để đáp ứng yêu cầu bức thiết của chiến trường, đặc biệt là vấn đề lương thực, ngày 01-5-1951, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thuế nông nghiệp số 13-SL, và đến ngày 15-7-1951 lại ban hành tiếp sắc lệnh số 40-SL để công bố bản điều lệ tạm thời thuế nông nghiệp.
Sau khi tiếp thu chủ trương của trên, từ Chi bộ, đến chính quyền, đoàn thể và nhân dân đều tổ chức học tập một cách sâu rộng để hiểu rõ, thấm nhuần mục đích, ý nghĩa và nội dung của chính sách thuế nông nghiệp. Một ban thuế được thành lập từ xã cho đến làng để làm nhiệm vụ phân loại ruộng đất, bình hạng và định mức thuế cho nhân dân một cách công bằng, hợp lý. Nhiều biện pháp tổ chức thực hiện được đề ra rất thích hợp và có hiệu quả. Chính quyền và các đoàn thể đã phát huy vai trò của mình để kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này. Xã đã dựa vào các gia đình cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên để làm nòng cốt thúc đẩy phong trào. Lúc này, vấn đề thực hiện chính sách thuế nông nghiệp được xem là tiêu chuẩn để đánh giá tư tưởng và lập trường chính trị của tất cả mọi người đối với Đảng và cuộc kháng chiến. Cho nên, đây là cuộc vận động lớn có tính chất chính trị sâu sắc và tính quần chúng rộng lớn. Nhằm thực hiện tốt chính sách này, xã đã phát động một phong trào thi đua giữa các làng với nhau và việc động viên khen thưởng đã được đặt ra kịp thời. Vấn đề cổ động tuyên truyền vẫn là điểm nổi bật đã diễn ra một cách sinh động và sôi nổi ở tất cả các làng. Khắp làng xóm, cờ, băng, khẩu hiệu mọc lên san sát, suốt ngày đêm, chiêng trống khua vang lừng. ở chỗ nào cũng có cụm loa tuyên truyền và thúc dục quần chúng.
Do sự chỉ đạo sâu sát của Chi bộ đảng và sự kiểm tra đôn đốc tích cực của chính quyền và các đoàn thể, cộng với những phương pháp tuyên truyền, phát động quần chúng tốt cho nên trong đợt thuế nông nghiệp của năm 1951, cả 7 làng của Xuân Minh đã thu được hơn 160 tấn lúa. Trong 4 năm (từ 1951-1954) toàn Xuân Minh thu được gần 700 tấn lúa thuế nông nghiệp. Đó là một con số đáng kể đối với một vùng mà ruộng đất hầu hết chỉ cấy có một vụ và thường xuyên bị nạn hạn hán, úng lụt đe doạ. Nói chung, năm nào các làng của Xuân Minh cũng hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao một cách nhanh gọn.
Với việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp mà nông dân Xuân Minh lại có thêm ruộng đất để cày cấy vì do địa chủ, phú nông phân tán, bán và bỏ nhiều ruộng đất để tránh thuế. Cho nên, việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp còn mang ý nghĩa của một cuộc đấu tranh giai cấp trong chừng mực nhất định. Và trong cuộc đấu tranh này, lực lượng cách mạng của Xuân Minh đã chiến thắng.
Có thể nói, từ năm 1951 trở đi, phong trào quần chúng của Xuân Minh đã phát triển đến độ vô cùng vững chắc và toàn diện về tất cả các mặt. ở nhiều địa phương, run sợ trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, bọn phản động đã điên cuồng tìm mọi cách chống phá lại ta. Chúng tìm cách xuyên tạc, nói xấu các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, đồng thời dùng mọi thủ đoạn để lôi kéo, chia rẽ nội bộ quần chúng. Do đó, việc tăng cường đề cao cảnh giác và bảo vệ trật tự an ninh tại địa phương được chú trọng đặc biệt. ở các làng của Xuân Minh lúc này đều thành lập được các tổ ngũ gia bảo và tam gia bảo để giúp đỡ nhau thực hiện tốt vấn đề trị an. Đầu năm 1952, cấp trên quyết định thành lập lực lượng công an xã. Đồng chí trưởng công an xã đầu tiên là đồng chí Đỗ Văn Niết.
Một yêu cầu bức thiết trong thời gian này được đặt ra là phải tiếp tục thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển cao hơn nữa. Vấn đề xây dựng, củng cố Đảng phải kết hợp chặt chẽ với việc củng cố tổ đổi công, củng cố các tổ chức quần chúng và việc thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ mà trước hết là việc thực hiện đóng góp thuế nông nghiệp và huy động bộ đội, dân công cho chiến trường.
Cuối năm 1952, sau những thắng lợi to lớn của các phong trào, xã Minh Nghĩa đã tiến hành một cuộc vận động đấu tranh chính trị sâu sắc tại địa phương. Cuộc vận động này nhằm tập trung mũi nhọn vào bọn phá hoại hiện hành và có nợ máu với nhân dân, đồng thời bám chặt vào các nội dung phục vụ dân công và thanh toán thuế nông nghiệp để phân định rõ thái độ chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng rồi thông qua đó mà giải quyết các vấn đề nội bộ để đưa phong trào tiến lên.
ở một số địa phương khác trong huyện, cuộc vận động đấu tranh chính trị đã diễn ra rất phức tạp và gay gắt vì phát hiện được nhiều phản động và bọn chống đối, tiêu cực. Riêng ở xã Minh Nghĩa, chỉ trừ một số làng khác thì có một số hiện tượng chống thuế và chống dân công còn 7 làng của Xuân Minh thì hoàn toàn không có hiện tượng đó, cho nên cuộc vận động đấu tranh chính trị ở đây đã diễn ra một cách nhanh, gọn và êm nhẹ. Một số hiện tượng tiêu cực nhỏ đã được uốn nắn và giải quyết kịp thời. Thông qua cuộc vận động đấu tranh chính trị này mà Chi bộ, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức quần chúng lại được kiện toàn và củng cố một cách vững chắc hơn. Trong toàn xã, một số đảng viên kém phẩm chất và non yếu về lập trường chính trị đã bị đưa ra khỏi Đảng.
Có thể nói, cuộc vận động đấu tranh chính trị ở Xuân Minh đã thu được thắng lợi một cách nhanh chóng và tình hình diễn biến lại không gay gắt, phức tạp như một số nơi khác. Sở dĩ như vậy vì cơ sở Đảng ở đây rất vững mạnh, trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng lại rất cao. Qua cuộc vận động này, quần chúng càng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và điều đó cũng là nguyên nhân quan trọng để thúc đẩy phong trào đóng góp, ủng hộ kháng chiến phát triển mạnh mẽ, sôi nổi hơn.
Trong những năm kháng chiến, nhằm phát huy sức mạnh to lớn để chiến thắng quân thù, việc bồi dưỡng sức dân đã được Đảng ta rất chú ý quan tâm. Chính sách giảm tô, giảm tức và nhiệm vụ từng bước giải quyết yêu cầu ruộng đất cho nông dân cùng một loạt biện pháp tích cực nhằm hạn chế sự bóc lột của giai cấp địa chủ đã được tiến hành một cách có hiệu quả, làm cho quần chúng rất phấn khởi. Tuy vậy, những chính sách đó vẫn chưa đủ để bồi dưỡng nông dân lực lượng đông đảo và hùng hậu nhất của cuộc kháng chiến. Cho nên từ năm 1953, giữa lúc cuộc kháng chiến còn đang tiếp tục và bắt đầu chuyển sang giai đoạn tổng phản công thì Đảng có chủ trương tiến hành giảm tô triệt để và cải cách ruộng đất, để thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, nhằm động viên toàn dân đóng góp sức người, sức của nhiều nhất cho tiền tuyến.
Ở Xuân Minh và các vùng tự do trong tỉnh, từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo nông dân tiến hành 5 đợt đấu tranh thực hiện giảm tô và một đợt đấu tranh thực hiện cải cách ruộng đất. Kết quả đã giành được những thắng lợi rất quan trọng. Giai cấp nông dân ở Xuân Minh vô cùng phấn khởi vì có thêm ruộng đất để cày cấy, cho nên rất hăng hái lao động tăng gia, sản xuất và đóng góp rất tích cực những yêu cầu bức thiết của cuộc kháng chiến. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng để củng cố khối đoàn kết của địa phương.
Năm 1953, trong khi đang tiến hành đấu tranh thực hiện giảm tô thì xã Minh Nghĩa lại được chia nhỏ ra. Và xã Xuân Minh với 7 làng (Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Phú Tình, Yên Thọ và Thiên Lộc) đã chính thức được thành lập từ đó. Chi bộ, chính quyền, đoàn thể nhanh chóng được kiện toàn lại để tiếp tục thúc đẩy phong trào tiến lên với một tốc độ mới cho phù hợp với sự phát triển của cuộc kháng chiến.
Năm 1953-1954 là thời kỳ mà cuộc kháng chiến của ta đã chuyển sang tổng phản công để giành những thắng lợi quyết định. Đảng và Chính phủ đã huy động sự đóng góp của nhân dân lên một mức cao nhất. Lúc này, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng là nhiệm vụ trung tâm cần kíp của cả nước và đó cũng là tiếng kèn thúc dục sự tham gia đóng góp tích cực của nhân dân.
Đi theo tiếng gọi của Đảng, nhiều đoàn dân công, thanh niên xung phong và bộ đội của Xuân Minh đã liên tiếp lên đường ra tiền tuyến để làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Đã từng trải qua phục vụ các chiến dịch Cổ Lũng (1949) Quang Trung, Hoà Bình (1951), Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953), v.v..., dân công Xuân Minh càng thêm hăng hái và dày dạn kinh nghiệm trong việc phục vụ những trận đánh quyết liệt cuối cùng ở chiến trường. Từ 1953-1954, trong hơn 20 đợt dân công (cả ngắn hạn và dài hạn) thì xã Xuân Minh đã có gần 3000 lượt người ra đi trực tiếp phục vụ các chiến dịch, chỉ riêng chiến dịch Điện Biên Phủ đã chiếm hơn một nửa. Đó là chưa kể hàng ngàn lượt người phục vụ ngắn ngày tại hậu phương. Trên đường ra tiền truyến, vượt qua bao khó khăn, gian khổ, lúc lội suối băng rừng, lúc vượt đèo, vượt núi, lúc nắng mưa dầm dề, lúc đạn bom gầm réo, v.v... nhưng các đoàn dân công của Xuân Minh vẫn bền chí, bền lòng để quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao (như tiếp lương, tải đạn, mở đường và phá bom nổ chậm, v.v...). Có người đã anh dũng hy sinh ở chiến trường hay trên đường ra trận. Nhưng tất cả đều lập được thành tích xuất sắc trong công tác phục vụ tiền tuyến nên đã được cấp trên và bộ chỉ huy mặt trận biểu dương, khen ngợi.
Trong lúc hàng ngàn dân công, bộ đội và thanh niên xung phong trên đường ra tiền tuyến thì những người ở nhà vẫn tiếp tục chăm lo đẩy mạnh sản xuất và thực hiện tốt các nhiệm vụ hậu phương. Biết bao nhiêu hình ảnh cảm động về sự tương trợ, giúp đỡ của chính quyền, đoàn thể và quần chúng nhân dân đối với những gia đình có người thoát ly và đi chiến trường. Vì vậy mà những người ra đi cũng rất yên tâm để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Suốt chín năm kháng chiến, toàn xã Xuân Minh đã vinh dự có 156 người đi bộ đội và gần 20 người đi thanh niên xung phong. Trong số đó có 9 người đã hy sinh anh dũng.
Có thể nói sự đóng góp sức người sức của của nhân dân Xuân Minh trong chín năm kháng chiến chống thực Pháp là rất đáng kể. Từ trong 9 năm đó, cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân Xuân Minh đã phát huy truyền thống yêu nước và lòng nhiệt tình cách mạng để làm nên những thành tích thật đáng tự hào. Được Đảng dìu dắt và lãnh đạo, phong trào cách mạng của nhân dân Xuân Minh trong kháng chiến đã trưởng thành nhanh chóng và phát triển rất toàn diện. Với những thành tích và sự đóng góp to lớn, Xuân Minh xứng đáng trở thành một cơ sở hậu phương đáng tin cậy của cuộc kháng chiến, đồng thời góp phần tô thắm ngọn cờ bách chiến bách thắng của Đảng quang vinh.
Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Thực dân Pháp đã nhục nhã ký vào hiệp nghị đình chiến ở Giơnevơ. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng.
Thế là, từ đây cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh lại cùng nhân dân cả tỉnh, cả nước vững bước chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam với một niềm tin và hy vọng to lớn.
CHƯƠNG 4
XUÂN MINH TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
I. KHÔI PHỤC, CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ XÃ HỘI (1954-1965)
Tháng 7-1954, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu bước sang thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.
Tháng 9 1954, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã kịp thời ra Nghị quyết để chỉ rõ nhiệm vụ chung của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại hiệp định đình chiến để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc1.
Tinh thần Nghị quyết đó của Đảng đã nhanh chóng được quán triệt sâu sắc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tại Xuân Minh, trong khung cảnh tưng bừng, phấn khởi của những ngày vừa hoà bình lập lại, cán bộ, đảng viên, dân quân tự vệ và nhân dân vẫn đề cao cảnh giác để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xuyên tạc và phá hoại của địch. Mặc dù nhiều nơi ở miền núi, thành thị, nông thôn và các vùng công giáo, bọn thổ phỉ, gián điệp, phản động tay sai cho đế quốc Mỹ ra sức quấy rối và phá hoại nền an ninh chính trị của ta, nhưng ở Xuân Minh, không một kẻ gian nào có thể lọt vào được. Lúc này, công tác trị an được chú ý rất nghiêm ngặt. Lực lượng công an và dân quân địa phương được củng cố, tăng cường và ngày đêm tuần tra, cảnh giác để nhân dân yên tâm lao động, sản xuất. Những biểu hiện của tư tưởng hoà bình, nghỉ ngơi và lơ là mất cảnh giác của một số cán bộ và quần chúng đã được uốn nắn kịp thời. Qua việc học tập và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng mà cơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể của quần chúng được tăng cường, củng cố vững mạnh hơn.
Nghe theo lời gọi của Đảng và Hồ Chủ Tịch, mọi tầng lớp nhân dân Xuân Minh đã đoàn kết một lòng cùng với nhân dân cả tỉnh bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế (1954-1957) với một tinh thần hăng hái, quyết tâm rất cao.
Ngay từ cuối tháng 7-1954 trở đi, nhân dân ở đây đã tập trung lực lượng lao động vào việc sản xuất vụ mùa cho kịp thời vụ, đồng thời tranh thủ san lấp hào luỹ và phát quang các hàng rào kiên cố ở xung quanh làng để việc đi lại, sản xuất được dễ dàng và tiện lợi hơn. Thế là các làng kháng chiến đã trở thành các làng sản xuất và xây dựng.
Thời gian này, nắng hạn kéo dài. Việc tạo ra nguồn nước để cấy hết diện tích là một việc cần kíp ở địa phương. Một phong trào thuỷ lợi được phát động nhanh chóng và sôi nổi ở tất cả các làng. Quần chúng nhân dân đã hăng hái tham gia vào việc đắp đập sông Cầu Chày và đào giếng, khơi mương, đắp bờ giữ nước ở khắp các xứ đồng. Các tổ đổi công của các làng đã phát huy vai trò tích cực của mình trong việc lấy nước chống hạn này. Nhờ vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, tất cả mọi diện tích đất canh tác ở đây đều đã được cấy kịp thời vụ.
Bên cạnh việc ra sức khôi phục và phát triển sản xuất ở địa phương, nhân dân Xuân Minh còn tích cực đóng góp sức người, sức của vào các phong trào chung của tỉnh. Nhiều người đã hăng hái tự nguyện đi thanh niên xung phong, đi công nhân cầu đường, hoặc công nhân các công trường, nhà máy để làm nhiệm vụ khôi phục kinh tế và kiến thiết xây dựng. Đặc biệt, hàng trăm nhân công của Xuân Minh được huy động liên tiếp lên công trường sửa chữa đập Bái Thượng, đập Bàn Thạch, cống Phong Lạc và hệ thống nông giang sông Chu đã tích cực lao động ngày đêm để góp phần đưa nước về đồng ruộng ở các vùng trong tỉnh (12-1954).
Cuối năm 1954, một trận lụt lớn làm vỡ đê sông Chu đã gây rất nhiều thiệt hại và tình trạng đói kém đối với nhiều địa phương trong, ngoài huyện Thọ Xuân. Riêng vùng Xuân Minh còn bị ảnh hưởng trực tiếp của nạn lụt sông Cầu Chày, cho nên lúa và hoa màu cũng bị trôi, hỏng hết. Trước tình hình khó khăn nghiêm trọng này, nhân dân Xuân Minh lại phát huy tinh thần đoàn kết và tương thân, tương ái để giúp đỡ lẫn nhau vượt qua nạn đói. Đảng và chính quyền địa phương còn tìm ra nhiều biện pháp tích cực để nhanh chóng ổn định tình hình đời sống nhân dân. Một phong trào trồng các loại cây lương thực, hoa màu và rau quả ngắn ngày đã được phát động sâu rộng ở tất cả các làng. Nhờ đó mà tình trạng khó khăn, đói kém đã bị đẩy lùi.
Đầu năm 1955, giữa lúc phong trào quần chúng đang trên đà khí thế và vừa thu được một số thành tích bước đầu thì ở Xuân Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc cải cách ruộng đất lại được tiến hành tiếp tục một cách khẩn trương để hoàn thành triệt để nhiệm vụ phản phong một nhiệm vụ chiến lược cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ. Đến cuối năm 1955, cuộc cải cách ruộng đất ở Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu được những kết quả rất to lớn: Toàn bộ giai cấp địa chủ bóc lột ở tất cả các làng đã bị đánh đổ, quyền phong kiến chiếm hữu ruộng đất hoàn toàn xoá bỏ. Hơn 500 mẫu ruộng đất và hơn 100 gian nhà ngói cùng mấy chục trâu, bò và nhiều tài sản khác của giai cấp địa chủ đã bị tịch thu để chia cho hàng mấy trăm hộ nông dân. Riêng về ruộng đất thì đối với những người không có và thiếu ruộng đều được chia để đảm bảo mức bình quân hơn 3 sào/ một nhân khẩu.
Thế là, đến đây, sau 25 năm đi theo Đảng làm cách mạng (1930-1955), giai cấp nông dân Xuân Minh đã được thực hiện triệt để khẩu hiệu người cày có ruộng một khẩu hiệu chiến lược được đề ra từ ngày Đảng ra đời. Với cải cách ruộng đất, giai cấp nông dân Xuân Minh hoàn toàn thoát khỏi ách bóc lột phong kiến có từ ngàn đời để thực sự bước sang địa vị làm chủ về chính trị, kinh tế tại địa phương.
Qua cải cách ruộng đất, nhận thức, quan điểm, lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng cao, làm cho tình cảm công nông liên minh và khối đoàn kết nông thôn được củng cố, tăng cường vững chắc hơn bao giờ hết. Tuy vậy, quá trình cải cách ruộng đất cũng có phạm những sai lầm phổ biến và nghiêm trọng (đặc biệt là việc chỉ đạo thực hiện). Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch đã kịp thời phát hiện và chỉ đạo việc sửa sai từ cuối năm 1956 đến giữa năm 1957. Nhờ đó mà những thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất mới phát huy được ý nghĩa tích cực một cách trọn vẹn. Qua sửa sai, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân càng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng. Rồi tiếp sau đó, sơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể lại được củng cố, kiện toàn một cách vững chắc hơn. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng ở đây mới được phát huy và đáp ứng kịp thời với sự đòi hỏi ngày càng cao của việc tổ chức, chỉ đạo các phong trào quần chúng.
Song song với cải cách ruộng đất, việc ra sức phát triển sản xuất để phục hồi kinh tế tại Xuân Minh cũng được đẩy mạnh toàn diện. Các tổ đổi công ở các làng lúc này đã thu hút được 100% số hộ nông dân tham gia đã hoạt động ngày, đêm rất tích cực và có hiệu quả trong các phong trào làm thuỷ lợi, làm phân bón và khai hoang vỡ hoá để tăng diện tích gieo trồng, v.v...
Sau ba năm khôi phục kinh tế (1954-1957), đời sống của nhân dân Xuân Minh đã đi dần vào thế ổn định. Đặc biệt về mặt sản xuất lương thực một khâu cơ bản trong đời sống đã giành được thắng lợi liên tiếp trong mấy vụ đầu. Trong 3 năm, diện tích canh tác nông nghiệp của toàn xã đã tăng hơn so với 1954 là 25 mẫu. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những bước phát triển mới và hoạt động rất tích cực. Đường làng, ngõ xóm cũng được mở rộng và ngày càng phong quang, sạch sẽ hơn. Nhờ đó mà bộ mặt đời sống, xã hội của Xuân Minh đã tiến bộ so với thời kỳ trước hoà bình lập lại.
Mặc dù công cuộc khôi phục kinh tế của Xuân Minh có những biến chuyển đáng kể, nhưng nhìn chung thì nền kinh tế ở đây vẫn là nền kinh tế nông nghiệp cá thể, phân tán, nhỏ bé và nghèo nàn, lạc hậu. Giai cấp nông dân tuy đã thoát khỏi quan hệ sản xuất phong kiến nhưng vẫn phát triển một cách tự do, rời rạc và chưa đi vào một quĩ đạo thống nhất, cho nên nếu cứ để tiếp tục kéo dài thì nhất định sẽ nảy sinh xu hướng phát triển tư bản một nguyên nhân cơ bản của tình trạng người bóc lột người ở nông thôn. Đến lúc này, không phải riêng ở Xuân Minh mà là toàn bộ các vùng nông thôn trên miền Bắc, cuộc đấu tranh giữa hai con đường để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã được đặt ra một cách cấp bách. Giữa lúc đó, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tất cả mọi thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh để đưa miền Bắc tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Cuối năm 1958, quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết của hội nghị lần thứ XIV của Trung ương Đảng (11-1958), Đảng bộ Thanh Hoá đã phát động một phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa (mà trọng tâm là cải tạo và phát triển nông nghiệp) một cách mạnh mẽ và sâu rộng. Lúc này, đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công lên hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp rồi tiến lên hợp tác xã bậc cao.
Ở Xuân Minh, từ tháng 12-1958 và cả năm 1959, cuộc vận động hợp tác hoá diễn ra một cách nhanh chóng, rộng khắp và thực sự đã trở thành một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi và mạnh mẽ
Đến cuối năm 1959, hơn 70% số hộ nông dân Xuân Minh từ tổ đổi công đã tự nguyện tham gia hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp để quản lý 67,68% diện tích ruộng đất trong toàn xã. Lúc đầu qui mô của hợp tác xã còn nhỏ bé với vài ba chục hộ. Bình quân mỗi một làng thành lập được hai hợp tác xã nông nghiệp, hoa lợi ruộng đất mà xã viên được hưởng là 25%.
Do bước đầu đã phát huy được tác dụng của con đường làm ăn tập thể trong việc tập trung sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng cường phân bón, khắc phục tưới, tiêu, v.v... đã dẫn đến việc tăng năng suất liên tiếp trong một, hai vụ liền, cho nên đến năm 1960, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp trong toàn xã Xuân Minh đã cơ bản hoàn thành và thu hút được gần 100% số hộ nông dân tham gia.
Song song với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp thì việc tổ chức các hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán cũng thu được kết quả rất đáng mừng. Tuyệt đại bộ phận nông dân Xuân Minh đã hăng hái tham gia và đóng góp nhiều cổ phần để đầu tư vốn cho các tổ chức hợp tác đó hoạt động và phát huy tác dụng . Trong thực tế, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán đã thực sự trở thành ba ngọn cờ hồng phục vụ đắc lực cho việc phát triển sản xuất và nhu cầu đời sống của nhân dân ở trong xã.
Sự thắng lợi của phong trào hợp tác hoá đã dẫn đến sự thắng lợi của việc thực hiện các chỉ tiêu sản xuất, kinh tế và văn hoá xã hội. ở Xuân Minh, từ năm 1958 đến 1960, do quan hệ sản xuất mới được xác lập, và lực lượng lao động bước đầu được bố trí hợp lý cho nên về sản xuất nông nghiệp rất được đẩy mạnh. Đặc biệt, về công tác thuỷ lợi và cải tiến kỹ thuật là những mặt có nhiều tiến bộ rõ nhất. Năng suất thu hoạch về lúa, bông, khoai, lạc và những hoa màu khác cũng tăng lên trông thấy so với thời kỳ còn làm ăn cá thể. Riêng về lúa, mỗi sào thu hoạch so với trước đã tăng được từ 15-20kg. Chính những chuyển biến cụ thể đó đã có tác dụng củng cố lòng tin cho quần chúng nông dân về ý nghĩa tích cực của con đường làm ăn tập thể. Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng phát triển đồng bộ và kịp thời cùng với quá trình cải tạo và phát triển kinh tế đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của địa phương ngày càng thêm đổi mới. Lúc này, công tác giáo dục phổ thông và bổ túc văn hoá được chú trọng đặc biệt cho nên đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Như vậy, sau ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập ở Xuân Minh. Đó là một thắng lợi cơ bản có tính chất quyết định đối với việc xoá bỏ và chấm dứt tình trạng người bóc lột người ở địa phương. Từ một nền kinh tế tiểu nông, cá thể, lạc hậu và nhỏ bé, Xuân Minh đã xây dựng được một nền kinh tế tập thể thuần nhất xã hội chủ nghĩa rất ưu việt. Và chính nền kinh tế đó là động lực cơ bản tạo ra sự chuyển biến cách mạng sâu sắc và toàn diện ở đây. Qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, mọi tư tưởng tiêu cực như cá nhân, tư lợi, bảo thủ, lạc hậu, phân tán, tự phát, v.v... dần dần bị đẩy lùi. Giai cấp nông dân bước đầu đi vào con đường làm ăn tập thể đã tỏ rõ khả năng, sức mạnh trong việc phát triển sản xuất và khắc phục những hậu quả thiên tai cho nên rất vững tin đi theo Đảng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng qua đợt này, cán bộ, đảng viên được nâng cao hơn về lập trường của giai cấp vô sản. Nhiều đồng chí đã tỏ ra gương mẫu, tích cực trong việc liên hệ với quần chúng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời cương quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực cản trở phong trào. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ địa phương được củng cố và tăng cường vững chắc thêm một bước để đủ sức đáp ứng với những đòi hỏi ngày một cao của công tác tổ chức, lãnh đạo phong trào cơ sở trong giai đoạn mới.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã họp để vạch ra đường lối chung của cách mạng miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và thông qua phương hướng, chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Phát huy thành tích của 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã vững bước tiến sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần rất quyết tâm và hăng hái. Tại đây, ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá được tiến hành đồng thời đã diễn ra rất sinh động.
Dưới ánh sáng của các nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960) và của đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (2-1961), cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã được nhận thức đầy đủ và sâu sắc về đường lối, nhiệm vụ cách mạng của thời kỳ mới để rồi từ đó thấy rõ được trách nhiệm của mình sẽ làm gì để thiết thực đóng góp cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà.
Tại Xuân Minh, một phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa được dấy lên sôi nổi và đều khắp ở tất cả các làng. Nội dung và mục đích của phong trào đều nhằm đưa nền kinh tế của Xuân Minh tiến lên với tốc độc mới, nhanh chóng và toàn diện hơn. Phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại phong một điển hình tiên tiến trong ngành nông nghiệp toàn quốc lúc đó được phát động đã có tác dụng cổ vũ, khích lệ tinh thần quần chúng rất cao.
Đến cuối năm 1961, cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh đã đạt được thắng lợi rất cơ bản. Tất cả các hợp tác xã bậc thấp với qui mô vài chục hộ đã được tháp lại để chuyển lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao với qui mô toàn thôn từ gần 100 hộ trở lên. Đó là một thuận lợi rất lớn để Xuân Minh bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Lúc này, toàn xã có 6 hợp tác xã (mỗi làng là một hợp tác xã) là: Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Xá Lê, Quang Hoa1 và Thiên Lộc.
Quán triệt nghị quyết Tăng cường cơ sở Đảng ở nông thôn để củng cố hợp tác xã và đẩy mạnh sản xuất toàn diện của Hội nghị Ban chấp hành tỉnh đảng bộ, tháng 11 năm 1961 Đảng bộ cơ sở Xuân Minh được thành lập, đã chú trọng rất đúng mức đến việc kiện toàn lại sự lãnh đạo của cấp uỷ và Chi bộ Đảng về mọi mặt để đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng có trách nhiệm sâu sát đối với các phong trào của quần chúng. Lúc này, việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện được xác định là nhiệm vụ trọng tâm số một. Bên cạnh việc ra sức phát triển cây lương thực thì việc phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi cũng được chú trọng.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật từ năm 1962 trở đi cũng được tiến hành thường xuyên.
Trong thời gian này, ở tất cả các hợp tác xã của Xuân Minh đều đã thực hiện xong nhiệm vụ công hữu tư liệu sản xuất và việc phân phối ăn chia theo công điểm, cho nên đã có tác dụng kích thích rất cao đối với người lao động.
Nói chung, trong giai đoạn bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), do quán triệt đúng đắn tinh thần nghị quyết của Đảng và biết vận dụng các nhiệm vụ chính trị cụ thể vào hoàn cảnh địa phương một cách thích hợp, cho nên cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Đặc biệt về mặt thuỷ lợi là mặt nổi bật nhất ở đây. Có thể nói đây là khâu cơ bản số một đối với việc phát triển nông nghiệp. Là một nơi luôn luôn bị thiên tai đe doạ và đồng ruộng thường ở trong tình trạng chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã úng, cho nên, việc canh tác nông nghiệp của Xuân Minh gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đồng ruộng ở đây không được ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống nông giang sông Chu. Mặc dù là vùng có sông Cầu Chày đi qua, nhưng để khai thác được nguồn nước cho nông nghiệp cũng không phải là chuyện dễ dàng. Trước đây, việc sản xuất, canh tác gần như lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, cho nên năng suất mùa màng thường hay bấp bênh và không ổn định. Vấn đề thâm canh tăng năng suất ở đây quả thực là điều rất nan giải, đòi hỏi phải đầu tư tiền vốn và sức lực rất lớn thì mới có thể giải quyết được. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và mấy năm sau hoà bình, mặc dù Đảng và chính quyền địa phương có chú ý phát động nhân dân làm công tác thuỷ lợi (như đào giếng, đắp đập, khơi ngòi, v.v...) trong một phạm vi và chừng mực nhất định, nhưng nhìn chung, những cố gắng đó vẫn chưa đủ đáp ứng đến yêu cầu tưới, tiêu và canh tác ở đây. Đến năm 1958, toàn xã Xuân Minh vẫn chưa có xứ đồng nào có thể cấy được hai vụ lúa. Trong tổng số 760 mẫu ruộng đất, chỉ có 1/3 diện tích là kết hợp được một vụ lúa và một vụ màu, còn lại tất cả là chỉ làm được một vụ lúa. Cho nên, nếu năm nào bị mất mùa vì thiên tai thì đời sống nhân dân sẽ cơ cực không thể nào tả hết. Căn cứ vào tình trạng cụ thể đó mà Đảng bộ và chính quyền địa phương đã tập trung mọi cố gắng để tổ chức và lãnh đạo nhân dân làm tốt công tác thuỷ lợi trong nhiều năm liền. Đặc biệt là từ khi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập ở vùng nông thôn Xuân Minh thì công tác thuỷ lợi mới thực sự trở thành một phong trào quần chúng hết sức to lớn và mạnh mẽ. Và thực tế ở đây đã diễn ra rất đúng như đường lối của Đảng đã vạch trong giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa là hợp tác hoá phải đi đôi với thuỷ lợi hoá. Chỉ có như vậy thì mới có thể giải quyết vấn đề thâm canh tăng vụ và nâng cao năng suất cây trồng được.
Từ năm 1961-1965, hàng mấy vạn ngày công đã được huy động liên tục vào việc xây dựng hệ thống thuỷ lợi và kiến thiết lại đồng ruộng trong toàn xã (như đào mương, đắp đập, khơi hồ, khơi mau và làm bờ vùng, bờ thửa, v.v...). Trong 5 năm liền, toàn xã đã đào được gần 15.000m mương trên tất cả các xứ đồng theo một qui hoạch thống nhất, đồng thời nạo vét được hàng chục hồ mau để giữ nước và kiến thiết hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa. Nhờ đó mà việc tưới tiêu chủ động đã được khắc phục một bước rất kết quả. Năm 1963, 1964 các hợp tác xã ở đây đã được trang bị một số máy bơm loại vừa và nhỏ để phục vụ việc chống úng và chống hạn.
Nhờ những cố gắng lớn lao của công tác thuỷ lợi mà việc thâm canh, tăng năng suất cây trồng ở Xuân Minh đã bắt đầu phát triển và mở ra những triển vọng rất đáng mừng. Cuối năm 1964, hàng mấy trăm mẫu ruộng đất từ chỗ chỉ cấy được một vụ lúa, nay đã chuyển sang cấy được hai vụ lúa. Đó là một tiến bộ vượt bậc mà những năm trước chẳng bao giờ có. Đây cũng là một chứng minh hùng hồn về sự ưu việt và tính hơn hẳn của con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa so với con đường làm ăn cá thể trước kia.
Năng suất lúa và các loại hoa màu đã tăng lên trông thấy. Riêng lúa đã đạt năng suất từ 4-4,5 tấn/ha hai vụ, còn khoai cũng đạt được từ 6-7 tấn/ha.
Lúc này, phong trào thi đua học tập hợp tác xã Đông Phương Hồng (xã Thọ hải) và hợp tác xã Thắng Lợi (xã Xuân Thành) là những điển hình tiên tiến trong phong trào thâm canh tăng năng suất ở tỉnh ta được phát động rộng rãi ở Xuân Minh trên tất cả các mặt. Đặc biệt, phong trào làm phân bón ruộng đã thu hút được đông đảo lực lượng thanh niên, học sinh và nhân dân tham gia phổ biến nhất là việc làm phân xanh và tận dụng đất bùn ở các ao hồ. Bên cạnh việc sử dụng phân chuồng, nhân dân Xuân Minh cũng đã mạnh dạn dùng phân bắc để bón ruộng. ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được các nhà ủ phân đúng kỹ thuật. Trên cánh đồng, hay đường làng, ngõ xóm, ở chỗ nào không phải đất canh tác đều được tận dụng để trồng điền thanh vừa sạch mát mà vừa là nguồn phân bón rất có chất lượng. Nhờ có phong trào làm phân này mà đất đai canh tác càng được tăng độ mùn và mầu mỡ hơn.
Về công cụ lao động cũng không ngừng được cải tiến ngay sau khi thành lập hợp tác xã. ở Xuân Minh đã diễn ra phong trào bỏ cày chìa vôi, lên ngôi cày 51 và dùng cào cải tiến theo kiểu Nghệ An, v.v... Để giải phóng đôi vai, một số phương tiện vận chuyển phục vụ sản xuất như xe trâu, xe bò, xe cải tiến, xe đạp thồ, xe cút kít cũng được đưa vào sử dụng rất hiệu quả. Đường xá ra đồng cũng được mở rộng để việc vận chuyển, đi lại được thuận tiện. Năm 1964, phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi và máy bừa lần đầu tiên đã có mặt trên đồng ruộng Xuân Minh và phát huy tác dụng một cách rất tích cực. 1/3 diện tích đất đai đã được sử dụng phương tiện cơ giới. Đó là một điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động chân tay nặng nề của con người.
Từ năm 1961-1965, nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật đã được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như ngâm giống theo phương pháp ba sôi, hai lạnh, cấy dầy và bỏ nhiều phân, v.v... Việc chăm bón theo từng thời kỳ sinh lý của cây trồng cũng rất được chú ý. Một số giống cũ có năng suất thấp đã bị loại bỏ để thay thế vào đó là các giống mới có năng suất cao. Tất cả những cố gắng đó đã góp phần làm cho năng suất lúa mỗi sào tăng hơn trước từ 30-40 kg thóc.
Về chăn nuôi cũng là một tiến bộ nhanh chóng. Hợp tác xã nào cũng xây được chuồng trại chăn nuôi lợn tập thể với số lượng ban đầu từ 30-50 con. Đàn trâu, bò trong toàn xã đã có tới gần 700 con. Đó là nguồn sức kéo quan trọng trong nông nghiệp. Riêng về lợn, ngoài đàn lợn tập thể thì mỗi gia đình cũng nuôi được từ một con lợn trở lên. Ngoài ra, ở các hợp tác xã còn phát triển cả nghề nuôi cá nước ngọt ở các ao hồ và nuôi vịt đàn để lấy trứng, v.v... Nhờ đó, mà nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong xã đã được giải quyết một cách thường xuyên.
Về thủ công nghiệp: ở hợp tác xã nào cũng xây dựng được lò gạch, lò vôi để cung cấp cho yêu cầu xây dựng và sản xuất. Nghề mộc, nghề nề, nghề làm giắng, đan lát, kéo sợi, v.v... cũng rất được khuyến khích để tăng thu nhập đời sống gia đình, đồng thời để phục vụ cho yêu cầu đời sống của nhân dân.
Nói chung, sự nghiệp phát triển kinh tế của nhân dân Xuân Minh trong 5 năm (1961-1965) có những biến đổi rất cơ bản và nhanh chóng. Đời sống nhân dân đã được cải thiện thêm một bước. Bộ mặt xóm làng mỗi ngày một khang trang, tươi đẹp hơn. Bên cạnh đó, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất nổi bật. So với ngày hoà bình vừa lập lại, số học sinh phổ thông của xã Xuân Minh đã tăng gấp 4 lần. Toàn xã có một trường cấp I với trên 10 lớp và gần 500 học sinh. Nhiều học sinh đã được chuyển lên học cấp II, cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp. Đến tháng 9-1965, toàn xã lại được mở thêm một trường cấp II với 4 lớp và trên 200 học sinh. Công tác bổ túc văn hoá vẫn được phát triển không ngừng. Trường vừa học vừa làm cấp II, III của Xuân Minh được ra đời trong thời gian này đã phát huy tác dụng tích cực đối với việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
Về y tế: Toàn xã có một trạm xá với 5 giường bệnh và 5 cán bộ y tế (trong đó có 1 y sĩ, 2 y tá và 2 nữ hộ sinh). ở hợp tác xã nào cũng có đội vệ sinh phòng dịch chuyên môn chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Việc tiêm chủng phòng bệnh được tiến hành thường xuyên, cho nên đã kịp thời ngăn chặn được mọi dịch bệnh. Đến năm 1965, hơn 80% gia đình đã có giếng nước và 100% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Đó là một tiến bộ vượt bậc so với những năm trước đó.
Về nếp sống mới thì đã thanh toán được triệt để các tệ nạn của xã hội cũ. Mọi đám ma, đám cưới đều do đoàn thể và hợp tác xã đứng ra tổ chức, đảm bảo được sự ấm cúng, vui vẻ và giảm bớt được sự tốn kém cho nhân dân. Do đời sống phát triển nên phong trào văn nghệ quần chúng cũng có nhiều tiến bộ. ở hợp tác xã nào cũng thành lập được đội văn nghệ và thường xuyên tổ chức phục vụ nhân dân. Công tác thông tin tuyên truyền cũng phát huy được tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn, cổ động các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ.
Tháng 3-1964, trong hội nghị chính trị đặc biệt ở Hà Nội, Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi mỗi người dân phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Đáp lời kêu gọi đó, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái thi đua làm hết sức mình để phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết là phải hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu kế hoạch được giao.
Như vậy, với thời kỳ bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cán bộ, đảng viên và giai cấp nông dân tập thể Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa vừa xác lập đã được củng cố tăng cường vững chắc hơn. Đời sống nhân dân được cải thiện một phần cơ bản. Tình trạng bất ổn định và túng đói thường xuyên đã bị đẩy lùi. Cơ sở vật chất kỹ thuật của địa phương bước đầu được xây dựng và tăng cường. Nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa đã hình thành và đang mở ra những triển vọng tốt đẹp. Tất cả những thành quả đó đã tạo ra sức mạnh và thế đi vững chắc của nhân dân Xuân Minh trong giai đoạn mới giai đoạn tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến tranh.
II. VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG VÀ CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC
Giữa lúc nhân dân ta đang dốc sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đế quốc Mỹ liều lĩnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc rất điên cuồng.
Với tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng kiên cường, nhân dân Xuân Minh đã hăng hái lao vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước để giữ vững lời thề không có gì quý hơn độc lập tự do.
Bước sang thời chiến, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã nhanh chóng chuyển hướng kịp thời để thích nghi với tình hình mới. Bên cạnh việc cố gắng để duy trì và phát triển sản xuất thì công tác phòng không nhân dân và tổ chức phòng thủ chiến đấu được triển khai một cách khẩn trương, mau lẹ. Đảng bộ và chính quyền địa phương đã huy động mọi lực lượng nhân dân đào được hơn 10.000m giao thông hào chạy dọc theo các đường làng, ngõ xóm, đồng thời kiến thiết được hơn 3.000 hầm trú ẩn ở các gia đình và nơi công cộng. Các lớp học phổ thông cũng nhanh chóng được phân tán đến những nơi kín đáo để đắp thành, đắp luỹ che chắn bảo vệ cho học sinh yên tâm học tập. Các lớp học này thực sự là lớp học phòng không kiên cố. Trên những gò cao, hoặc giữa cánh đồng, các trận địa trực chiến của dân quân cũng được bố trí sẵn sàng để làm nhiệm vụ săn máy bay Mỹ ở tầm thấp. ở mỗi làng đều thành lập được các đội cứu tải thương và đội phòng cháy chữa cháy để phục vụ kịp thời khi chiến sự diễn ra. Nói chung, toàn xã đều trong tư thế sẵn sàng để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Mặc dù không phải là nơi trọng điểm đánh phá ác liệt, nhưng công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở Xuân Minh vẫn được phát huy cao độ. Trong thời gian đơn vị bộ đội ra đa về đóng tại địa phương, nhân dân Xuân Minh đã hết lòng giúp đỡ về nhiều phương diện. Hàng mấy ngàn ngày công của nhân dân trong xã đã được huy động đến để cùng với bộ đội ngày đêm kiến thiết các ụ pháo và ụ che chắn ra đa. Lực lượng dân quân trực chiến cùng với các khẩu đội pháo của bộ đội đã tạo thành thế trận vững chắc bảo vệ cho ra đa hoạt động được an toàn và liên tục.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại này, nhân dân Xuân Minh cũng đã chia sẻ tình cảm cùng với đồng bào Vĩnh Linh, Quảng Bình để đưa gần 300 cháu về nuôi và săn sóc. Đến khi kết thúc chiến tranh, các cháu đều lớn khôn và khoẻ mạnh để trở về xum họp với gia đình thân yêu sau những năm xa cách. Không những thế, nhân dân ở đây còn đón nhận và giúp đỡ một số cơ quan của tỉnh về đây sơ tán. Và trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước này, tình cảm công nông binh lại được củng cố vững chắc và tăng cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Do công tác phòng không nhân dân và sự đề cao cảnh giác ở địa phương được thực hiện tốt, cho nên, trong suốt những năm chiến tranh phá hoại, Xuân Minh vẫn không bao giờ bị lộ mục tiêu để cho địch bắn phá. Tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu không bao giờ bị giảm sút, mà trái lại, ngày một diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp hơn. Các phong trào Quyết thắng của dân quân tự vệ, Ba sẵn sàng của thanh niên, Ba đảm đang của phụ nữ, v.v... được phát động thường xuyên đã tạo ra một phong trào quần chúng vô cùng sôi nổi ở địa phương. Khẩu hiệu Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong suốt thời gian của hai cuộc chiến tranh phá hoại đã thực sự trở thành phương châm hành động cách mạng chung của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh.
Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều thanh niên ở đây đã hăng hái lên đường ra tiền tuyến làm nhiệm vụ chiến đấu. Trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Xuân Minh có 463 người đi bộ đội và hàng trăm người đi thanh niên xung phong, đi công nhân quốc phòng và công nhân hoả tuyến. Bình quân cứ gần 4 người dân lại có một người đi bộ đội. Đó là một tỉ lệ rất cao thể hiện sự đóng góp to lớn của nhân dân Xuân Minh đối với cuộc kháng chiến vĩ đại này. Nhờ thành tích này mà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, xã Xuân Minh đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Trên các chiến trường, nhiều đồng chí đã lập được chiến công suất sắc. Gần 500 Huân, Huy chương các loại phần thưởng cao quí của Đảng và Nhà nước đã được gắn trên ngực những người con của nhân dân Xuân Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ này đã chứng minh điều đó. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng cho sự nghiệp vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc. 102 liệt sĩ của Xuân Minh đã góp phần máu xương để tô thắm cho ngọn cờ quang vinh của Đảng.
Bên cạnh thành tích chi viện cho tiền tuyến thì thành tích về công tác hậu phương quân đội ở đây cũng là sự nổi bật. Chế độ, chính sách đối với gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được thực hiện rất đầy đủ, đặc biệt là đối với những gia đình có nhiều khó khăn đã được chính quyền, đoàn thể và hợp tác xã tập trung giúp đỡ về nhiều mặt. ở làng nào có hiện tượng chưa thực hiện tốt những chủ trương, chính sách đó đều được uốn nắn một cách kịp thời. Nhờ đó mà người ra đi và người ở lại đều phấn khởi và an tâm để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Một điều đặc biệt là suốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ở Xuân Minh không hề có một người nào đào ngũ và trốn tránh nhiệm vụ. Đó là một thành tích tiêu biểu cho truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Xuân Minh.
Song song với công tác chiến đấu và phục vụ chiến đấu thì nhiệm vụ duy trì và phát triển sản xuất vẫn được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm số một ở địa phương. Dưới tiếng gầm rít của máy bay và bom đạn Mỹ, trận địa sản xuất và xây dựng của Xuân Minh vẫn không ngừng phát triển và lớn mạnh. Phong trào Tay cày tay súng, tay liềm tay súng của lực lượng thanh niên và dân quân ở đây đã có tác dụng khích lệ, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái bám đồng ruộng để sản xuất. Phong trào mỗi người làm việc bằng hai cũng được phát động rất sâu rộng để tận dụng và phát huy sức lao động to lớn của mọi người.
Trong điều kiện đất đai canh tác khó khăn và luôn luôn bị thiên tai địch hoạ đe doạ, nhưng nhân dân Xuân Minh vẫn tập trung mọi cố gắng để làm thuỷ lợi, phân bón và mở rộng diện tích canh tác để thực hiện thâm canh tăng năng suất. Đến năm 1969, hơn 50% diện tích đất canh tác của Xuân Minh đã cấy được hai vụ lúa và đạt năng suất 5 tấn/ha cả năm, đồng thời đưa vụ đông trở thành vụ chính. Đó là một bước tiến đáng kể trong quá trình phát triển nông nghiệp. Lúc này, cuộc cách mạng giống và các biện pháp khoa học kỹ thuật được thực hiện phổ biến và sâu rộng cũng là một nguyên nhân làm cho năng suất thu hoạch được nâng lên. Phong trào làm ruộng tăng sản, làm bèo hoa dâu ở các làng cũng được đẩy mạnh cùng với việc cấy thẳng hàng và thực hiện các biện pháp kỹ thuật liên hoàn đã tạo ra những kết quả rất khả quan.
Bên cạnh sự tiến bộ của việc mở rộng diện tích canh tác, thâm canh tăng năng suất cây trồng và các phong trào phục vụ sản xuất khác thì về chăn nuôi cũng là một cố gắng rất lớn ở đây. Đến cuối năm 1972, đàn lợp tập thể tăng hơn so với năm 1965 là 30%. Riêng đàn lợn gia đình cũng rất phổ biến và có hiệu quả rất cao. Về đàn bò thì vẫn duy trì ở mức trên dưới 700 con.
Thắng lợi liên tục của việc phát triển sản xuất và chăn nuôi là một nguyên nhân quan trọng làm cho Xuân Minh luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu nghĩa vụ lương thực, thực phẩm của Nhà nước giao.
Nói chung, trong hai cuộc chiến tranh phá hoại, trải qua bao khó khăn về thiên tai, địch hoạ, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh mặc dù vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhưng vẫn giành được những tiến bộ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã (như nhà kho, sân phơi, lò giống, trại chăn nuôi, máy bơm, máy sát và nhiều công cụ cải tiến khác...) được tăng cường rất nhanh. Năng suất lúa và các loại hoa màu khác cũng đạt được những con số tiến bộ vượt bậc so với những năm trước chiến tranh. Đời sống nhân dân vẫn từng bước được cải thiện. Ngay cả lúc cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt nhất (như năm 1972) thì nhân dân Xuân Minh vẫn chắc tay cày, hay tay súng để quyết tâm phấn đấu thực hiện ba mục tiêu lớn trong nông nghiệp là: một lao động, 5 tấn thóc, 2 con lợn/ha gieo trồng. Việc phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh và toàn diện đang trên đà đi lên nhanh chóng và có rất nhiều triển vọng tốt đẹp.
Bên cạnh đấy thì sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng đạt được những thành tích rất đáng tự hào. Mọi biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt đời sống đã được phê phán và uốn nắn kịp thời. Đội văn nghệ của xã vẫn thường xuyên mang lời ca tiếng hát để phục vụ kịp thời cuộc sống sản xuất chiến đấu ở địa phương. Trong hội diễn văn nghệ của tỉnh năm 1975, tiết mục biểu diễn của đội văn nghệ Xuân Minh đã vinh dự được tặng thưởng huy chương vàng. Tốc độ của ngành giáo dục phổ thông ở đây cũng phát triển rất nhanh. Đến năm 1975, trường cấp I, cấp II của xã có trên 700 học sinh và 26 giáo viên, nhiều năm liền được công nhận là trường tiên tiến của huyện. Số học sinh khá và giỏi mỗi ngày một tăng lên. Nhiều em còn được tham dự các kỳ thi học sinh giỏi của huyện, của tỉnh. Trường vừa học vừa làm (cấp II, cấp III) của xã được tỉnh, huyện công nhận là một điển hình về phong trào bổ túc văn hoá ở cơ sở đã và đang phát huy tác dụng cho việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ và con em nhân dân ở trong xã. Trong cuộc chiến tranh phá hoại, mặc dù có nhiều gian nan vất vả, nhưng số lượng học sinh chuyển lên cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp mỗi ngày một nhiều. Riêng hợp tác xã cũng cử nhiều cán bộ vào học ở các trường trung cấp, sơ cấp, để đào tạo thành những cán bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, thú y, cơ khí, v.v... để phục vụ trực tiếp tại địa phương. Nhà trẻ và nhà mẫu giáo của các làng cũng được phát triển, đã có tác dụng rất tốt cho nhân dân yên tâm lao động và sản xuất. Về y tế thì ở xã còn có thêm một trạm chống lao để điều trị người bệnh. Công tác vệ sinh phòng bệnh được thực hiện sâu rộng đến từng đội sản xuất Trạm xá xã đã có nhiều cố gắng đối với việc khám và chữa bệnh cho nhân dân.
Có thể nói, thông qua các phong trào chiến đấu, lao động sản xuất và phát triển văn hoá, xã hội mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Xuân Minh lại được củng cố và tăng cường. Đến năm 1974, tất cả các hợp tác xã ở đây đã được tháp lại để chuyển làm qui mô toàn xã. Đó là một thuận lợi rất cơ bản cho việc quản lý và điều hành sản xuất theo một guồng máy và qui hoạch thống nhất. Từ đó, phong trào tổ chức lại sản xuất và cải tiến một bước về quản lý trong nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa tại Xuân Minh được mở rộng từng bước một cách vững chắc.
Mùa xuân năm 1975, với cuộc tổng tấn công và nổi dậy ở miền Nam mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nửa đất nước thân yêu còn lại của chúng ta được hoàn toàn giải phóng. Từ đây, trong điều kiện Tổ quốc thống nhất, nhân dân cả hai miền Nam Bắc đã cùng chung một nhiệm vụ là giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 5
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG GIÀU MẠNH VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 2009)
I. KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ XÃ HỘI (1975 1985)
Tháng 12-1976, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), đồng thời đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là:
Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội1
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, Đảng bộ Xuân Minh đã tập trung mọi cố gắng để lãnh đạo nhân dân ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân và hoàn thành xuất sắc mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Từ đó cho đến năm 1980, sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hoá của Xuân Minh đã tiến những bước mới rất cơ bản. Việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên các mặt sản xuất, xây dựng và tổ chức đời sống được triển khai thường xuyên cùng với việc phát động rộng rãi các phong trào thi đua lao động sản xuất và cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm cho bộ mặt đời sống xã hội của Xuân Minh mau đổi mới. Đảng bộ xã luôn luôn tổ chức những cuộc đấu tranh phê bình để tìm ra những mặt yếu kém về quản lý và tổ chức chỉ đạo sản xuất, rồi từ đó đề ra được những biện pháp tích cực để khắc phục nhằm thúc đẩy nền kinh tế ở địa phương phát triển toàn diện và cân đối lên một bước mới.
Trong những năm này, hàng trăm, hàng ngàn nhân lực lao động ở Xuân Minh đã lần lượt thay thế nhau để đi tham gia lao động trên các đại công trường thủ công như: Quảng Châu, sông Lý, sông Hoàng, sông Mực, Lạch Bạng, hồ chứa nước Yên Mỹ, kênh Tam Điệp, v.v... để góp phần thiết thực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng thuỷ lợi to lớn ở tỉnh ta.
Trên đồng ruộng của mình, nhân dân Xuân Minh đã ra sức cải tạo và kiến thiết lại một cách hợp lý cho phù hợp với hướng phát triển sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mặt khác, mở rộng diện tích trồng lúa hai vụ và cây công nghiệp, phục vụ xuất khẩu. Đến năm 1980, Xuân Minh không những là một trọng điểm lúa mà còn là một trọng điểm lạc ở vùng tả ngạn sông Chu của huyện Thọ Xuân.
Công tác thuỷ lợi để giải quyết vấn đề tưới tiêu ở Xuân Minh vẫn là khâu cơ bản trọng yếu, đòi hỏi phải có sự đầu tư, trang bị qui mô và khoa học của địa phương và sự giúp đỡ, hỗ trợ thêm của Nhà nước thì mới có thể khắc phục một cách ổn định được. Trong lúc chưa đủ điều kiện để giải quyết một cách triệt để, nhân dân Xuân Minh vẫn chủ động, quyết tâm khắc phục từng bước một cách cơ bản để phục vụ cho việc thâm canh tăng năng suất một đòi hỏi rất bức thiết lúc này. Trên mọi xứ đồng, hệ thống kênh mương đã được tu bổ và làm thêm một cách khẩn trương. Bên cạnh đó, việc khắc phục tình trạng lồi lõm và cao thấp không đều trên đồng ruộng cũng được tiến hành một cách gấp rút để việc tưới, tiêu được dễ dàng. Lúc này, hợp tác còn đầu tư và trang bị thêm một số máy bơm chạy dầu để khai thác nguồn nước ở sông Cầu Chày và các hồ ao. Việc tăng cường sử dụng phương tiện cơ giới như máy cày, máy ủi, máy bừa cũng giúp một phần quan trọng làm cho đồng ruộng Xuân Minh bằng phẳng và đỡ lồi lõm hơn. Chính tất cả những cố gắng này mà Xuân Minh mới thực hiện được việc thâm canh tăng vụ. Mặc dù không có hệ thống nông giang và điều kiện đất đai thuận lợi như các địa phương ở vùng hữu ngạn sông Chu, nhưng Xuân Minh vẫn phấn đấu giữ vững thành tích 5 tấn/ha hai vụ lúa, đồng thời cố gắng tăng cường mọi biện pháp tích cực để đưa năng suất cây trồng mỗi ngày một cao hơn.
So với một số địa phương khác ở trong tỉnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của Xuân Minh vẫn còn nghèo, nhưng dù sao, đến năm 1980 với những cái gì đã có cũng phần nào đáp ứng kịp thời những yêu cầu cần thiết của việc phát triển sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân.
Phong trào Định công hoá và học tập các điển hình tiên tiến của tỉnh trong những năm này cũng có tác dụng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh có nhiều chuyển biến rất rõ rệt, đặc biệt là việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong việc quản lý và điều hành sản xuất. Đội ngũ cán bộ quản lý từ hợp tác xã đến các đội sản xuất được kiện toàn và bổ sung những người có năng lực, nhiệt tình cách mạng vào để thay thế những người có tư tưởng bảo thủ, tuỳ tiện và vô trách nhiệm. Phần lớn cán bộ quản lý từ đội đến hợp tác xã đều được đào tạo qua thử thách, rèn luyện ở địa phương và đều đã qua học tập, bồi dưỡng ở những lớp chính trị, quản lý ngắn hoặc dài ngày do tỉnh và huyện mở. Nhờ đó mà tầm nhìn và khả năng điều hành sản xuất của đội ngũ này được nâng lên.
Với sự cố gắng, quyết tâm rất cao của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, hợp tác xã và toàn thể nhân dân, mà Xuân Minh từ một xã có nhiều khó khăn về điều kiện đất đai, canh tác đã trở thành một xã vững vàng trong phát triển sản xuất, đặc biệt là việc sản xuất lương thực và chăn nuôi là những mặt có nhiều tiến bộ nhất. Trong các năm (từ 1976-1980), nghĩa vụ lương thực và thực phẩm ở đây luôn luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu được giao. Chính thành quả của việc phát triển sản xuất đó đã giúp cho Xuân Minh thúc đẩy được các phong trào thi đua xây dựng, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi bọn phản động bành trướng, bá quyền Bắc Kinh ra mặt phản bội và phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta thì ở Xuân Minh, hàng trăm thanh niên lại phát huy truyền thống cách mạng kiên cường của những ngày đánh Pháp và đánh Mỹ để hăng hái lên đường ra biên giới phía Bắc và phía Tây Nam làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Trong tình hình mới, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã quán triệt Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X (1979) để thực hiện phương hướng chiến lược chung ở trong tỉnh là:
Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết nhất trí, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi nhân tố tích cực, khắc phục mọi khó khăn và những mặt tiêu cực, tiếp tục tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý, kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhằm đẩy mạnh và mở rộng các ngành sản xuất, tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các yêu cầu của chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Đồng thời làm tốt nhiệm vụ quốc tế, nhất là đối với tỉnh bạn Hủa Phăn. Cho đến nay, sự phấn đấu đó đã và đang trở thành những hiện thực hết sức tốt đẹp1.
Từ năm 1981 trở đi, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phấn đấu một cách cao nhất để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, chỉ tiêu trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985), góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngay từ năm 1981 năm đầu tiên bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, Đảng bộ Xuân Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (13-1-1981) về việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (mà lúc đó gọi là khoán 100). Nhờ đó, mà chỉ sau một thời gian ngắn, ý thức làm chủ ruộng đồng và năng suất lao động của các xã viên đã tăng lên rõ rệt. Lúc này, Đảng uỷ xác định việc hoàn chỉnh công tác thuỷ lợi là một trung tâm hàng đầu cần phải được tập trung toàn tâm, toàn lực để giải quyết một cách dứt điểm và nhanh chóng nhất. Và chỉ có như vậy thì mới có thể chấm dứt được tình trạng hạn, úng một khó khăn thường xuyên diễn ra ở đây. Thời gian này, tỉnh cũng nhất trí đầu tư hỗ trợ cho Xuân Minh về tiền vốn, vật tư, thiết bị để xây dựng ở đây một trạm bơm điện cỡ vừa.
Đến năm 1983, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Sở Thuỷ lợi và Công ty Điện lực Thanh Hoá, cộng với sự cố gắng to lớn của toàn thể Đảng bộ và nhân dân Xuân Minh mà trạm bơm điện của địa phương tại sông Cầu Chày đã được xây dựng hoàn chỉnh và chính thức bước vào hoạt động phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp. Thế là, sau bao nhiêu năm ước mơ và phấn đấu, vấn đề chủ động giải quyết nguồn nước tưới cho hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của Xuân Minh đã trở thành hiện thực. Có thể nói ngày khánh thành trạm bơm điện Xuân Minh đã thực sự trở thành một ngày hội lớn của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Từ đây, vấn đề thâm canh, tăng vụ và tăng năng suất cây trồng sẽ mở ra nhiều triển vọng và hứa hẹn tốt đẹp.
Qua thực tế của mấy vụ đầu (từ 1983 đến nay), năng suất thu hoạch ở Xuân Minh đã tăng lên trông thấy. Bình quân mỗi sào đã đạt được từ một tạ rưỡi đến hai tạ lúa. Đó là những con số kỷ lục mà trong những năm trước đây chẳng bao giờ có. Với đà này, triển vọng 6, 7, 8 tấn/ha hai vụ lúa của Xuân Minh đã xích lại rất gần trong tầm tay với.
Trong thời gian tới, vấn đề kiến thiết đồng ruộng và tu bổ, cải tạo hợp lý hệ thống tưới tiêu trong toàn xã vẫn còn phải tiếp tục hoàn chỉnh thêm một bước để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển sản xuất và thâm canh tăng năng suất ở đây.
Mấy năm vừa qua, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã được đẩy mạnh và áp dụng phổ biến tại Xuân Minh. Hợp tác xã cũng rất chú ý đến việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất. Việc cải tạo đất và kiến thiết đồng ruộng, việc tận dụng các nguồn phân hữu cơ đi đôi với việc tăng cường phân hoá học, việc phòng trừ sâu bệnh và các biện pháp kỹ thuật liên hoàn, gieo cấy, chăm bón, v.v... được phát động rộng rãi, thường xuyên cũng góp phần tích cực để năng suất thu hoạch ở địa phương mỗi ngày một tăng lên.
Trong tổng số hơn 760 mẫu ruộng đất canh tác của toàn xã bây giờ, về cơ bản đã được qui hoạch lại để sử dụng theo hướng thâm canh và chuyên canh mà tỉnh và huyện đề ra để nhằm mục đích phát triển trồng trọt, chăn nuôi và xuất khẩu. ở đây, ngoài 70% diện tích để thâm canh lúa, hợp tác xã còn giành gần 30% diện tích để trồng lạc và các loại hoa mầu khác. Riêng về lạc trong năm 1983, xã Xuân Minh được công nhận là xã loại hai ở trong tỉnh có thành tích về sản xuất lạc để xuất khẩu.
Trên cơ sở thực hiện tốt tinh thần của Chỉ thị khoán 100, việc bố trí lực lượng lao động cũng được sắp xếp lại một cách hợp lý để tận dụng triệt để sức lao động ở trong xã. ở đây, ngoài lực lượng đông đảo tập trung vào việc trồng trọt, chăn nuôi, còn có các đội chuyên về thuỷ lợi, về ngành nghề, v.v... Tất cả những cố gắng đó đã làm cho Xuân Minh ngày càng phát huy được nhiều về hiệu quả lao động cũng như về đất đai tại địa phương. Cũng bởi vì thế mà mọi chỉ tiêu nghĩa vụ Nhà nước qui định đều được thực hiện mỗi ngày một cao hơn.
Về nghĩa vụ lương thực, cả năm 1982 chỉ có 160 tấn thì năm 1985 lại tăng lên đến mức 520 tấn và thực tế đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Về nghĩa vụ thực phẩm trong hai năm 1982 1983 cũng hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao. Năm 1982, đạt 22 tấn với số lợn là 1.200 con. Năm 1983, tăng lên 32 tấn và số lợn là 1.500 con.
Ở Xuân Minh, ngoài đàn lợn tập thể thì đàn lợn của gia đình cũng phát triển một cách nhanh chóng. Nếu như những năm trước, mỗi gia đình chỉ nuôi bình quân cả năm được 1 con đến 1,5 con thì giờ đây đã nuôi được từ 2 con trở lên trong cả năm. Do đó, trong mấy năm vừa qua, ngoài việc đảm bảo lợn nghĩa vụ, nhân dân trong xã còn hăng hái tự nguyện bán lợn cho Nhà nước theo giá khuyến khích và đổi hàng. Bên cạnh đó, việc phát triển chăn nuôi cá cũng đã được chú ý hơn trước. Diện tích thả cá được tu bổ và mở rộng nhiều hơn. Hàng năm, toàn xã cũng thu hoạch được hàng chục tấn cá. Đó là nguồn thực phẩm quan trọng để giải quyết nhu cầu đời sống nhân dân.
Với những thành quả đạt được trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, và hiện tại, đã đi vào thế tương đối ổn định. Năm 1985, gần 100% gia đình ở trong xã đã có nhà ngói, sân gạch với cả một hệ thống giếng nước, nhà tắm và nhà xí rất sạch sẽ. Phần lớn các gia đình đều có xe đạp và các đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt cần thiết. Gần 20% gia đình có đài bán dẫn để nghe thời sự, tin tức. So với trước Cách mạng tháng Tám thì hiện thực đó là sự đổi đời to lớn và là sự tiến bộ vượt bậc. Tất cả những cảnh thiếu đói, mất bữa đã được giải quyết triệt để. Những cảnh gác hái thì treo niêu và mùa đông thì đắp chiếu, mùa hè thì che mưa như thời kỳ trước cách mạng đã vĩnh viễn qua từ lâu rồi. Giờ đây, nhu cầu đời sống ngày càng cao, đòi hỏi toàn thể mọi người trong xã phải quyết tâm rất lớn để đưa nền kinh tế Xuân Minh phát triển lên trình độ cao một cách toàn diện thì sự ấm no, hạnh phúc mới bền vững và đúng ý nghĩa một cách trọn vẹn.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật cũng góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá và ngược lại, cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá cũng góp phần tích cực vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Thực tế đó đã thể hiện rất rõ ở Xuân Minh.
Cho đến nay, sự nghiệp văn hoá xã hội của Xuân Minh cũng phát triển một cách toàn diện và đạt được nhiều thành tích rất đáng kể.
Về văn hoá: Việc xây dựng nếp sống mới và con người mới xã hội chủ nghĩa ở địa phương được chú trọng đặc biệt. Nhờ đó mà quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong xã được phát huy cao độ trên tất cả mọi lĩnh vực. Đến lúc này, ý thức và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân đã trở thành một bản tính tốt đẹp rất phổ biến. Ai ai cũng đều có ý thức trách nhiệm đối với lợi ích của tập thể và Nhà nước. Mọi biểu hiện tiêu cực, chống đối, lạc hậu và mê tín dị đoan đã được giải quyết một cách triệt để, để nhường chỗ cho nếp sống văn minh lành mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa được bao trùm. Hiện nay, toàn xã có riêng một Chi bộ văn hoá để tập trung chỉ đạo công tác này rất hiệu quả. Nhà thư viện được thành lập trong mấy năm qua đã phát huy tác dụng tích cực trong việc phục vụ sản xuất và nâng cao tri thức cách mạng và khoa học kỹ thuật cho cán bộ, nhân dân. Đội văn nghệ mạnh của xã cũng tích cực phục vụ đời sống sản xuất và chiến đấu ở địa phương. Nhiều vở kịch tự biên, tự diễn đã cổ vũ, khen chê kịp thời, đã có tác dụng phục vụ các nhiệm vụ chính trị rất nhạy bén. Đội thông tin lưu động cũng thường xuyên cổ động, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó cũng là một mũi nhọn của trận địa tuyên truyền ở địa phương.
Về giáo dục: Đến năm 1985, trường phổ thông cơ sở (cấp I, II) của Xuân Minh đã có tất cả là 26 lớp với trên một ngàn học sinh và 45 giáo viên. Chất lượng giảng dạy và học tập ở nhà trường mỗi ngày một tiến bộ. Số học sinh vào trường cấp III và các trường đại học, trung học chuyên nghiệp tăng lên gấp bội so với mấy năm trước đó. Hiện nay, toàn xã đã có gần 400 người có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hiện đang công tác ở các cơ quan, đơn vị nhà nước, trong đó có hai người đạt trình độ phó tiến sĩ. Trường vừa học vừa làm của xã bây giờ có 4 lớp (từ lớp 10 đến lớp 12) và gần 200 học sinh. Đó cũng là một trong số những trường tiên tiến của huyện. Toàn xã có một hệ thống nhà trẻ, nhà mẫu giáo rất chu đáo, đã phát huy rất tích cực trong việc nuôi, dạy trẻ để phục vụ nhân dân yên tâm lao động, sản xuất.
Về y tế: Trạm xá xã hiện nay có 3 y sỹ, 2 y tá và 10 giường bệnh. Ngoài ra, ở đây còn có một trạm chống lao cách ly và 8 giường bệnh, do 1 y tá chuyên trách điều trị. Việc kết hợp điều trị đông, tây y cũng được chú trọng. Hàng năm, công tác vệ sinh phòng bệnh và tiêm chủng được thực hiện chu đáo. Đường làng, ngõ xóm mỗi ngày một sạch sẽ, phong quang. Nếp sống ăn ở vệ sinh đã trở thành phổ biến. Nhờ vậy mà ở Xuân Minh, các dịch bệnh nguy hiểm đã hạn chế và được ngăn chặn kịp thời.
Về thể dục thể thao thì xã cũng xây dựng được sân bóng đá, bóng chuyền để thanh niên, học sinh thường xuyên tập luyện và thi đấu.
Trải qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ xã Xuân Minh cũng lớn mạnh không ngừng. Cho đến năm 1985, toàn Đảng bộ có 282 đảng viên. Số đảng viên trẻ có năng lực và nhiệt tình cách mạng đã được bổ sung khá đông đảo. Đặc biệt là lực lượng đảng viên nữ ngày càng tỏ ra có nhiều khả năng đóng góp cho sự lớn mạnh của phong trào. Mấy năm qua, Đảng bộ luôn luôn tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị và đấu tranh phê bình cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó mà sức chiến đấu của Đảng bộ không ngừng được tăng cường. Nói chung, toàn thể Đảng bộ Xuân Minh hiện nay rất đoàn kết, nhất trí cho nên, đã trở thành một động lực quyết định để thúc đẩy phong trào ở đây phát triển một cách toàn diện và vững chắc.
Tóm lại, từ năm 1954 đến 1985, trải qua 31 năm phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã tiến những bước dài đáng kể. 31 năm đó được ghi vào lịch sử xã nhà như một đoạn đường thắng lợi vẻ vang. Sau 31 năm, bộ mặt đời sống xã hội, kinh tế của địa phương thay đổi một cách toàn diện cùng đất nước.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá, cán bộ, đảng viên và nhân dân Xuân Minh đã phát huy mọi khả năng, cố gắng để tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa để thiết thực góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ tiếp theo.
1 - Xã ái Quốc bao gồm các làng: Trung Lập, Bất Đạt, Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê, Phú Tình, Yên Thọ và Thiên Lộc.
- Xã Cao Thắng bao gồm các làng: Phong Cốc, Phong My, Thọ Tân, Phong Lai, Xuân Phô (tức Nỗ Đào)
- Xã Thọ Trường bao gồm các làng: Long Linh Nội, Long Linh Ngoại và Căng Hạ.
- Xã Thọ Phú bao gồm các làng: Phú Hậu, Cốc Thôn, Ngọc Quang Thượng, Ngọc Quang Hạ và Cao Phú.
2 Xã Minh Nghĩa cũ bao gồm các làng: Kênh Hoạch, Phú Trung, Phú Xá, Trung Vũ Thượng và Trung Vũ Hạ.
3 Xã Xuân Minh gồm các làng: Phong Cốc, Ngọc Trung, Thuần Hậu, Xá Lê (Vinh Quang), Quang Hoa (Phú Tình + Yên Thọ) và Thiên Lộc.
- Xã Xuân Tân gồm các làng: Thọ Tân, Xuân Phô, Phong My, Ngọc Quang Thượng, Ngọc Quang Hạ.
- Xã Xuân Lập gồm các làng: Phú Xá, Trung Vũ Thượng, Trung Vũ Hạ, Trung Lập, Bất Đạt (tức Đại Thắng) và Tấn Viên.
- Xuân Lai: Kênh Hoạch, Phú Trung và Phong Lai.
1 Lý trưởng là kẻ đứng đầu trong làng, chịu trách nhiệm chung, còn phó lý thì giúp việc lý trưởng.
- Hương kiểm chịu trách nhiệm về trị an nội gia cư, ngoại đồng điền.
- Hương mục chịu trách nhiệm điều dân đi phu đắp đê, làm đường...
- Hương bạ coi việc sinh tử, giá thú.
- Hương bản giữ quĩ.
1 Những người đến tuổi nộp sưu đều được phát thẻ. Nhưng tuỳ mức sưu cao thấp mà được nhận thẻ xanh, vàng, đỏ...
1 Thanh niên Cách mạng đồng chí hội là một tổ chức cách mạng do đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập (6-1925) ở Trung Quốc.
- Tân Việt cách mạng Đảng cũng là một tổ chức Cách mạng được thành lập cũng từ năm 1925. Lúc đầu, có tên là Hội Phục Việt (do các sĩ phu ở Trung Kỳ lập ra), sau lại đổi tên là Hội Hưng Nam và Việt Nam Cách mạng Đảng. Đến khi liên lạc được với tổ chức thanh niên thì mới đổi lại tên là Tân Việt cách mạng Đảng.
Cả hai tổ chức này đều là những tổ chức tiền thân của Đảng bộ Thanh Hoá sau này.
1 Đồng chí Nguyễn Xuân Thuý sinh ngày 01-5-1900 và đồng chsi Nguyễn Văn Hổ (tức Nguyễn Văn Lãng, Nguyễn Văn Phổ, Nguyễn Thạch, Giang Hồ) sinh ngày 8-8-1908.
2 Thời kỳ đầu từ 1926-1927, hầu hết đảng viên Tân Việt đều là những nhà khoa bảng hoặc có thế lực về kinh tế, dần dần từ cuối 1927 trở đi thì mới kết nạp được nhiều đảng viên thuộc tầng lớp trẻ trong thanh niên, học sinh ở thành thị và nông thôn. Chính số này là lực lượng rất hăng hái và kiên định theo lập trường của chủ nghĩa Mác Lê Nin.
1 7 đảng viên Tân Việt thời gian này của Xuân Minh là các đồng chí Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Văn Hồ, Nguyễn Xuân Tập, Đỗ Huy Trinh, Trịnh Huy Phan, Trịnh Huy Tiêu, Đỗ Đình Khanh.
2 Đến giữa năm 1929, khi đồng chí Nguyễn Xuân Thuý bị ốm, thì đồng chí Nguyễn Văn Hồ được cử chức bí thư cho đến lúc Tân Việt bị khủng bố.
1 Bài Huấn lệnh:
Cách mạng đồng chí Nói phải giữ lời
Huấn lệnh mấy chương Chớ nói dông dài
Xin chớ xem thường Lộ ra hại sự
Phải ghi vào dạ Sổ sách giầy má
Thư từ giấy má Xong việc huỷ ngay
Hình ảnh thiếp danh Chớ để vào tay
Chớ để trong mình Những phường hành chính
Khi không sứ mạng Hội nghị phải tính
Tin tức vãng lai Lời dạy lời thưa
Phải biết phòng xa Cỗ bài, bàn cờ
Khi người hỏi ta Thường nên dự bị
Chớ hề lúng túng Kết nạp đồng chí
Ra nơi công chúng Phải dấu tên mình
Gặp bạn chớ chào Giáp ất, bính, đinh
To tiếng hỏi han Tha hồ bịa đặt
Lắm điều bất tiện Chớ có bối rối
Mật thư văn kiện Khi địch bắt ta
Cất dấu có nơi Khi chúng hỏi tra
Khám xét tìm tòi Phải đều chối hết
Phải rõ từng ly Nếu chúng ác nghiệt
Trước lúc hành vi Ta cứ ung dung
Suy xét hào ly Chúng ắt ngã lòng
Kẻo người rình lén Tự nhiên vô sự
Khi đi việc kín Tra tấn có dữ
Chớ có rụt rè Giả dại giả ngây
Lên tàu xuống xe Hư thực không khai
Tự nhiên thái độ Tên bạn chớ nói
Hẹn cho đúng chỗ Chớ nghe lời dối
Chớ có sai giờ Rằng bạn thú rồi
Không được hững hờ Thần trí bồi hồi
Phải nên thần tốc Mà sa vào bẫy
Trong mình y phục Cứ như thế ấy
Hết sức thủ thường Làm gì được ta
Đừng có phô trương Kết cục phải tha
Kẻo người chú ý Hoàn toàn danh tiết
Khi đi bao bị. Hy sinh khôn siết
Thu xếp gọn gàng Phấn đấu kỳ cùng
Chớ để kềnh càng Cách mạng thành công
Cảnh binh chú mục Đại đồng thế giới./.
Nói đừng lụp chụp
(Bài Huấn lệnh này do đồng chí Nguyễn Xuân Thuý Chủ tịch UBMT Tổ quốc
tỉnh Thanh Hoá cung cấp)
1 Chính do đặc điểm này mà từ năm 1930-1931, hai Đảng bộ cộng sản của tỉnh nhà đã lần lượt ra đời một cách biệt lập với nhau.
- Dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ Bắc kỳ, Đảng bộ Thanh Hoá thành lập ở Yên Trường (Thọ Xuân) ngày 29-7-1930.
- Dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ Trung kỳ, Đảng bộ Thanh Hoá lại được thành lập ở phủ lỵ Tĩnh Gia 1-1-1931.
1 Cuộc hội nghị này tổ chức tại nhà riêng của đồng chí Nguyễn Văn Hồ.
1 Từ hai đồng chí cộng sản đầu tiên tự chuyển hoá là đồng chí Nguyễn Xuân Thuý và Nguyễn Văn Hồ (ở làng Phong Cốc), đã chuyển hoá thêm được một số đồng chí sang tổ chức và hoạt động cộng sản là: Nguyễn Xuân Oanh (Phong Cốc), Trịnh Văn Phan và Trịnh Văn Tiêu (Ngọc Trung), Đỗ Huy Trinh (Thuần Hậu), Đỗ Đình Khanh (Xá Lê), Hà Duyên Đạt, Hà Duyên Kỷ (Canh Hoạch), Lê Văn Hiến, Bạ Mẫn (Phúc Bồi), Phó Khái (Yên Lãng), Nguyễn Văn Tương tức Lan Châu (Xuân Hoà), Lý Khai (Hạnh Phúc), Giáo Hoàng (Vân Lộ), Hoàng Văn Môn (Ngọc Vực).
1 Đồng chí Lê Tất Đắc quê ở xã Hoàng Phúc, Hoằng Hoá, cũng là một đảng viên Tân Việt cũ của Thanh Hoá. Năm 1930 đồng chí hoạt động ở Vinh và được kết nạp vào Đảng cộng sản thuộc Đảng bộ Nghệ An. Sau đó thì đồng chí được xứ uỷ cử về Thanh Hoá để vận động thành lập Đảng bộ tỉnh nhà.
1 Vườn Trầu này là của các đồng chí hoạt động trong quá trình chuyển hoá sang tổ chức và hoạt động cộng sản làm để gây quĩ cho tổ chức.
1 Ngày 20-6-1931, đồng chí Lê Văn Thiệp và đồng chí Viễn (Vĩnh Lộc) trên đường làm nhiệm vụ phát triển Đảng lên Cẩm Thuỷ thì bị địch bắt ở Eo Lê.
1 Sau thời gian tạm giam ở Thanh Hoá, đồng chí Nguyễn Văn Hồ bị kết án 10 năm tù, đồng chí Nguyễn Xuân Thuý 9 năm tù và sau đó cả hai đồng chí đều bị đầy đi Lao Bảo.
1 Đồng chí Nguyễn Xuân Oanh và Hoàng Văn Môn đóng giả thợ cắt tóc để vào Nghệ An tìm bắt liên lạc với Đảng. Đến làng Yên Dũng thì hai đồng chí bị địch bắt. Nhưng vì không có tang chứng gì cho nên sau đó địch phải trả lại tự do cho 2 đồng chí.
1 10 người bị bắt là các đồng chí: Nguyễn Xuân Thuý, Nguyễn Xuân Oanh, Nguyễn Văn Phác, Nguyễn Xuân Liên, Đỗ Hữu Ngoan, Nguyễn Văn Tập, Đỗ Văn Tục, Đỗ Văn Khoách, Đỗ Văn Mộc, Nguyễn Văn Hược.
1 Phan Văn Giáo lúc này đang muốn tranh thủ quần chúng để trúng cử vào viện dân biểu Trung kỳ, cho nên, khi nhờ giúp đỡ việc tìm thầy cãi là y đồng ý ngay.
2 Nguyễn Xuân Liên 3 năm, Đỗ Văn Mộc 2 năm, Nguyễn Xuân Tập 1 năm.
1 Phan Thanh Kỳ là một tên tay sai cáo già rất đắc lực của thực dân Pháp. Vì có nhiều kinh nghiệp trong việc trấn áp phong trào cách mạng ở Nghệ An, cho nên mặc dù đang làm tri phủ ở huyện Thanh Chương, nhưng đến đầu năm 1938, y đã được thực dân Pháp đưa về làm tri phủ Thiệu Hoá để thực hiện âm mưu dập tắt phong trào cách mạng ở đây.
1 Lúc này phủ Thiệu Hoá là nơi đầu tiên trong tỉnh thành lập được phủ uỷ.
2 Ở tổng Thử Cốc lúc đó có 2 chi bộ được thành lập là chi bộ Long Linh và chi bộ ghép của Xuân Minh.
1 Địa điểm họp: Tại nhà thờ cố Chuỷ (Xá Lê).
1 Theo con số thống kê của các làng thì có 8 nhà ngói, 8 nhà tranh bị tháo gỡ mang ra đồn, hàng trăm trâu, bò, lợn, gà, ngan, ngỗng, hàng chục tấn thóc gạo bị bọn lính ở đồn tước đoạt, v.v...
1 25 cán bộ và chiến sĩ tự vệ Xuân Minh đi Đa Ngọc là các đồng chí: Đỗ Thị Hạm, Mai Thị Kẽn, Đỗ Thị Chủ, Đỗ Huy Khuê (Thuần Hậu), Đỗ Văn Phết, Trịnh Duy Tứ, Trịnh Văn Khảng, Đỗ Văn Vợn, Trịnh Văn Hương, Trịnh Văn Chành, Đỗ Văn Lần, Đỗ Đan Quế, Trịnh Duy Quế (Xá Lê), Đỗ Văn Tuy, Trịnh Văn Nhẫn, Trịnh Văn Hảo, Đỗ Thị Dốt, Đỗ Văn Lẫu (Ngọc Trung), Lê Văn Tường, Lê Văn Cứ, Lê Văn Lịch, Lê Văn Vĩnh, Trần Văn Đá, Trịnh Văn Đậu (Phú Tình), Nguyễn Văn Liễn (Yên Thọ).
1 12 đồng chí có mặt tại chiến khu và tham gia đội du kích Ngọc Trạo là các đồng chí: Đỗ Huy Trinh, Đỗ Đình Khanh, Trịnh Văn Tiêu, Trịnh Văn Tuyênh, Trịnh Văn ất, Trịnh Văn Khâm, Mai Văn Thìn, Mai Văn Ngôn, Lê Văn Luận, Đỗ Thị Mà, Đỗ Huy Đích, Đỗ Huy Chúc.
1 Nhóm này do đồng chí Viêm Quý Ngãi lãnh đạo.
1 Nhóm này do đồng chí Lê Xuân Việt (tức Cớt) lãnh đạo.
1 Nhóm này hình thành từ tháng 3-1942 và hiện tại đã mở rộng phạm vi hoạt động sang cả Vĩnh Lộc, Yên Định. Đến tháng 10-1942, khi bắt được liên lạc với đồng chí Trịnh Ngọc Điệt thì mới thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ lâm thời (thành lập ở làng Thượng, Nga Sơn).
2 Tháng 7-1942, đồng chí Tố Hữu vượt trại tập trung Đắc Lây để về Thanh Hoá hoạt động. Thế là lực lượng cốt cán của Đảng bộ ta lại được tăng cường thêm.
1 Cuộc hội nghị có các đồng chí Phiên, Khôn, Khuê, Mễ, Dốt (Thuần Hậu), Đam (Phong Cốc), nữ Đức (Long Linh).
1 Lê Quốc Tuý (tức Cả Tuý) lãnh tụ đại việt ở Thanh Hóa cũng đích thân về Xuân Minh mấy lần để thực hiện âm mưu này.
1 Lúc này, thành phần trong UBND cách mạng lâm thời của các làng ở xã Xuân Minh hoàn toàn là các đồng chí cán bộ cách mạng rất có uy tín với nhân dân.
Các đồng chí sau đây được bầu làm chủ tịch UBND lâm thời của các làng:
- Nguyễn Xuân Thuý (Phong Cốc) - Lê Văn Uyển (Phúc Tình)
- Trịnh Văn Tiêu (Ngọc Trung) - Lê Văn Chấn (Thiện Lộc)
- Đỗ Huy Dong (Thuần Hậu) - Nguyễn Văn Thể (Yên Thọ)
- Trịnh Văn Lập (Xá Lê)
1 Lúc bầu Quốc hội thì tổng Thử Cốc vẫn thuộc Thiệu Hoá. Xem lại chú thích việc chia xã ở phần thứ nhất.
1 Lúc đầu tiên, Chi bộ Cao Thắng có 4 đồng chí, Chi bộ ái Quốc có 7 đồng chí.
1 Hồ Chí Minh: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 67.
1 Xã Minh Nghĩa được thành lập từ tháng 2 1946 gồm các làng Kênh Hoạch, Phú Trung, Phú Xá, Trung Vũ Thượng, Trung Vũ Hạ (thuộc các làng của xã Xuân Lập bây giờ).
2 Tháng 5-1947 mới có chủ trương thành lập Uỷ ban kháng chiến bên cạnh Uỷ ban hành chính. Uỷ ban kháng chiến lúc đó do đồng chí Hà Đình Vinh (tức Cớt) làm Chủ tịch. Đến tháng 8-1947, mới tháp hai uỷ ban lại thành Uỷ ban kháng chiến hành chính và lúc đó vẫn đồng chí Đỗ Huy Trinh làm Chủ tịch.
1 Hội nghị này được tổ chức ở làng Thuần Hậu.
1 Trích trong cuốn 50 năm hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Sử học, Hà Nội, ......, tr...........
1 Quang Hoa là làng mới được tháp bởi hai làng cũ là Yên Thọ và Phú Tình.
1 Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 29.
1 Trích trong Năm mươi năm hoạt động của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Thanh Hoá, NXB Thanh Hoá, 1980, tr. 214.
Tin khác
Tin nóng
Công khai giải quyết TTHC
SĐT: 02373545368
Email: ubndxaxuanminh@gmail.com